Thức ăn và giấy tờ

Người đi xe lửa cần phải tôn trọng một số điều lệ của hãng xe lửa đặt ra.  Những điều lệ này được dán trên vách tường xe lửa, ở những nơi dễ thấy, ngắn, chữ to dễ đọc.  Không ăn uống trên xe lửa.  Không để chân lên ghế.  Không làm ồn.  Hãng xe lửa có đội cảnh sát riêng. Các ông soát vé xe lửa có quyền đuổi hành khách hay tóm cổ giao cho cảnh sát.  Họa hoằn lắm mới có người làm mất trật tự.  Tuy nhiên vi phạm điều lệ là chuyện thường.  Có người dùng điện thoại nói chuyện ong óng đến độ người ta phải than phiền với những người soát vé.  Tôi sợ phải ngồi gần những người dùng cell phone nhiều như thế.  Nếu ồn quá tôi thường nghe nhạc hay bỏ đi chỗ khác.  Còn một cái phiền nữa là ngồi gần những người thích ăn uống trên xe lửa.

Cùng đi chuyến xe lửa buổi sáng với tôi có một người phụ nữ người da trắng.  Cô trạc tuổi bốn mươi.  Người cô rất gầy, không phải kiểu gầy như cánh hạc về chốn xa xôi.  Cô ta gầy như những cành cây mùa đông đã trơ trụi lá. Đi xe lửa lâu năm riết rồi quen mặt dù không biết tên.  Hôm nào đi xe lửa không nhìn thấy cô ta tôi thường hay kín đáo tìm.  Tóc của cô tuy thắt bím nhưng rối bù.  Có vẻ như cô đi ngủ với cái bím và sáng thức dậy không chải đầu.  Cô ăn mặc màu sắc như chửi nhau và chửi rất to.  Vớ cao đến đầu gối, sọc ngang đủ màu rực rỡ.  Loại vớ người ta có thể nhìn thấy trên những hình nộm đứng trong tủ kính của tiêm bán quần áo mắc tiền Bennetton.  Nhìn có vẻ ngộ nghĩnh trên cặp chân dài của một cô bé Đại Hàn tóc tém mắt một mí, nhưng trên cặp chân xương xẩu của một người đàn bà tuổi bước vào thu coi hơi kỳ.  Cô hay mặc váy ngắn.  Mùa hè cô mặc áo dây mỏng như cọng mì xốc xếch nhăn nheo trên bộ ngực lép kẹp như một cái bàn ủi đồ.  Màu áo màu vớ màu váy mỗi thứ một màu khác nhau, hình vẽ, sọc, hoa, tất cả đều như cất tiếng hét “nhìn tôi đây này.”  Cứ mỗi khi nhìn cô tôi lại cố gắng đoán nghề nghiệp của cô.  Rất có thể cô là học viên môn vũ ở một nhà hát nào đó ở New York và khi đến đấy cô sẽ thay trang phục.

Trên tay cô xách nhiều túi.  Loại bao ni lông người ta dùng để chứa hàng ở siêu thị cho người đi chợ mang về.  Cô có vẻ vui vẻ, thân thiện, hay nói chuyện với người chung quanh.  Vì quá gầy nên cô có vẻ khắc khổ, mặt có nhiều nếp nhăn.  Chút son phấn nhạt làm mặt cô có vẻ dễ nhìn nếu cô ăn mặc tươm tất một chút có thể nói cô là một phụ nữ khá xinh.

Tôi ít khi ngồi gần cô theo thói quen.  Tuy nhiên sáng nay không có chỗ nên khi tôi ngồi vào ghế trong sát với cửa sổ, cô đến ngồi bên cạnh.  Sợ phải trả lời những câu nói vụn vặt tôi chúi đầu vào quyển The Noodle Maker của Ma Jian, lấy bút ra ghi chú đầy trang sách.  (Tôi có thói quen rất xấu là khi tôi đọc một quyển sách nào tôi ghi chú những suy nghĩ đầy trang.  Còn nếu tôi không thích quyển sách thì chỉ chừng vài chương là tôi bỏ cuộc và thường là không ghi chú gì cả).  Cô ngồi cạnh tôi khoảng 5 phút thấy tôi không ngẩng mặt lên, cô quay ra nói chuyện với một người đàn ông ngồi đằng sau lưng.  Được dăm ba câu, cô lấy lọ yogurt trong cái bao ny lông ra ăn.  Loay hoay tìm cái thìa, cô khom người xuống lục lọi trong cái bao.  Rồi cô ăn, nhăm nhi, nhắm nháp.  Cũng may là yogurt không có mùi tỏi hành.  Cô có vẻ như đói lắm nên ăn xong cô cứ vét cái lọ yougurt nghe xoèn xoẹt.  Cô liếm cả cái thìa. 

Cô lại lom khom cúi người xuống bỏ lọ yogurt không vào trong bao.  Tôi úp mặt vào trong sách mải mê (giả bộ).  Cô lại nói chuyện với người ngồi đằng sau chừng năm phút cô đi đến đầu toa xe lửa lấy nước uống.  Trở về chỗ ngồi cô đi nghiêng ngả theo nhịp xe lửa chạy.  Tôi sợ cô bắt chuyện với tôi nên càng đọc say mê hơn.  Xe lửa bỗng trở nên im ắng.  Tất cả mọi người nếu không đọc sách hay nghe nhạc thì họ nhắm mắt lim dim.  Người thiếu phụ này lấy một xấp giấy tờ có cột bằng một sơi dây thun từ trong một cái bao ny lông ra, đó là những chi phí về tiền điện hay nước hay tiền bác sĩ gì đó theo lời cô lẩm nhẩm một mình và cả tờ báo cũ của ngày hôm qua.  Được đâu chừng năm phút cô đứng lên đi lấy nước uống lần nữa.  Đống chi phiếu rớt xuống sàn xe lửa vung vãi tung tóe.

Viết theo lời thách của một blogger.  Đề tài thức ăn và giấy tờ.