Monique Trương sinh năm 1968, Sài Gòn. Năm 1975 cô rời Việt Nam sang Hoa Kỳ. Trước khi xuất bản Bitter in the Mouth (tạm dịch là Vị Đắng); cô đã xuất bản The Book of Salt (Sách Muối) năm 2003. Sách Muối nằm trong danh sách bán chạy nhất của The New York Times và được trao giải thưởng New York Public Library Young Lions cùng với nhiều giải thưởng khác.
Monique Trương cùng với hai tác giả khác biên soạn tuyển tập Watermark: An Anthology of Vietnamese American Poetry & Prose (Asian American Writers’ Workshop, 1998). Cô cộng tác với the New York Times, the Times of London, Gourmet, và nhiều tạp chí khác. Monique Trương được giải thưởng PEN/Robert Bingham, Princeton University, và Guggenheim (2010) hỗ trợ tài chánh trong việc sáng tác và được mời tham gia những cơ sở văn hóa phát huy sáng tác như Lannan Foundation, Yaddo, và The MacDowell Colony.
Bên cạnh viết văn, Monique Trương là luật sư chuyên về ngành tư hữu tri thức (intellectual property), hiện đang cư ngụ ở Brooklyn, New York .
Độc giả quen thuộc với các phim Steel Magnolias và Waiting to Exhale có thể tin rằng phụ nữ sống ở các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ, da trắng cũng như da màu, luôn được những người phụ nữ, bạn bè và láng giềng, hỗ trợ để đương đầu với nghịch cảnh. Trong Vị Đắng, Monique Trương đưa ra một tình huống ngược lại. Linda Hammerick và tất cả các nhân vật nữ đều mang một tâm trạng cô đơn không thể chia sẻ hay thố lộ. Cùng ở trong một gia đình, liên hệ giữa các nhân vật nữ bên cạnh tình thân còn có ác cảm ngầm. Nỗi ác cảm này to lớn đến độ DeAnne không muốn có con vì sợ tình mẹ con sẽ giống như tình cảm của bà với mẹ. Monique Trương dùng một chuyện cổ tích làm ẩn dụ. Bạch Tuyết (trong Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn) đã vô tình ăn phải quà táo tẩm độc dược do bà mẹ kế giả dạng bà lão mang tặng. Thử tưởng tượng nỗi đau của Linda Hammerick khi lớn lên với ý nghĩ DeAnne dàn cảnh đưa cô ta vào chỗ nguy hiểm?
Linda mang một chứng bệnh lạ. Mỗi chữ cô nghe tạo ra mùi vị trên lưỡi cô. Âm thanh và vị giác tràn ngập hỗn độn ngăn chận sự tiếp thu chữ nghĩa của cô. Chữ mẹ có mùi sữa chocolate. Cái tên Wade của người bạn trai đầu đời có mùi thơm ngọt của nước đá cam. Linda nhận chìm các thứ mùi vị này bằng thuốc lá, ba gói một ngày. Tình dục và rượu cũng có thể trấn áp những cơn sóng mùi vị này tạm thời. Trở nên học sinh giỏi nhất trường, sau khi tốt nghiệp trung học, Linda rời Boiling Springs, nơi cô ở là một thành phố rất nhỏ chỉ hơn 3,000 người (theo con số năm 2000), đi học ngành luật ở Yale thuộc tiểu bang Conneticut. Trước khi chết, Iris, bà ngoại của Linda và là người không bao giờ nói dối, tiết lộ bí mật cuộc đời của Linda. Cái bí mật mà bà cho rằng có thể làm Linda vỡ làm đôi.
Đây không phải là bí mật duy nhất của Linda. tất cả những người chung quanh Linda đều có những bí mật của riêng họ. Xã hội của một thành phố nhỏ ở miền Nam Hoa Kỳ, có cuộc sống khép kín, gò bó, và nghiêm khắc. Dưới bề mặt lặng lẽ hiền hòa là những gia đình kém hạnh phúc đang ở bên bờ vực tan rã. Những cuộc ngoại tình, những bào thai hoang, những người đồng tính luyến ái không bao giờ thố lộ. Có những bí mật chủ nhân cố dấu nhưng cả thành phố nhỏ đều biết vì người ta rỉ tai nhau. Cái bí mật về cuộc đời của Linda ai cũng biết, trừ Linda, nhưng mọi người đều cố tình không nói cho cô biết, ngoại trừ bà ngoại của cô và bà chỉ nói trước khi bà sắp chết. Linda còn có một bí mật nữa chỉ có Kelly (bạn thân), DeAnne, và Bobby (anh họ của Kelly và là người DeAnne thuê cắt cỏ) biết. Biết được cái bí mật này độc giả sẽ hiểu cái hằn học của Linda với mẹ. Sự hằn học thoạt tiên có vẻ như thái độ chống đối hỗn láo của một cô gái con nhà giàu được nuông chìu. Chỉ sau khi Monique Trương vén màn bí mật độc giả sẽ hiểu thấy thấm thía với giọng văn trầm mặc của tác giả. Monique Trương xây dựng cấu trúc rất chặt chẽ khai mở những bí mật bi kịch của gia đình và xã hội rất đúng lúc hoàn toàn thu hút người đọc cho đến khi chấm dứt.