Chuyến đi tình nguyện phần cuối cùng

14 ngày với 14 người Mỹ đi làm việc tình nguyện cho Habitat for Humanity

Bài đăng ở Gió O. http://www.gio-o.com/NguyenThiHaiHa/NguyenThiHaiHa14Ngay4.htm

Phần 1, Phần 2, Phần 3

Một đôi khi bực bội

Chúng tôi có 14 ngày làm việc rất may mắn, vì khi xong việc tất cả mọi người đều an toàn.  Hoàn toàn không có mâu thuẩn nội bộ hay bất hòa với người địa phương.  Cả đoàn Habitat, những người thợ chính, và thợ phụ đã làm việc với nhau trong tinh thần hợp tác hòa đồng.  Chúng tôi rất vui vẻ thân mật với nhau.  Sau vài ngày làm việc, trở ngại ngôn ngữ không còn rõ rệt, chỉ vài động từ “tu quơ” là hai bên đều hiểu ý nhau.

Tai nạn có xảy ra nhưng không có thiệt hại.  Tôi ngã một lần.  Ông Ken ngã một lần.  Eric đứng trên giàn xây dựng, bước lên một miếng gỗ bị gãy nên ngã từ giàn cao xuống.  Cũng may anh còn trẻ, nhanh nhẹn lộn mèo rồi đáp xuống bằng chân nên không bị thương tích. 

Có một buổi chiều sau khi làm việc xong, Ken và Brandon muốn gửi bưu thiếp từ Việt Nam về Mỹ.  Bưu thiếp đã mua xong, đề địa chỉ, chỉ cần tài xế ngừng ở bưu điện chính để Ken và Brandon gửi đi.  Brandon muốn gửi độ một chục bưu thiếp.  Ken gửi ba chục cái.  Ken đã hỏi bưu điện chi nhánh giá của một bưu thiếp, chừng 23 ngàn đồng (tôi không nhớ chính xác giá tem). Ông có tem đủ dán cho mười cái bưu thiếp, bây giờ ông cần tem cho hai mươi bưu thiếp còn lại chưa viết địa chỉ xong cất ở khách sạn.

Một cô nhân viên ở bưu điện chính nói (sai) giá tem gửi đi ngoại quốc là 14 ngàn đồng (không nhớ chính xác).  Brandon mua tem dán vào và đưa xấp bưu thiếp cho cô nhân viên.  Bưu điện buổi chiều khá đông, người ra vào tấp nập, có chừng ba bốn cô nhân viên và một chị có vẻ như trưởng phòng.  Brandon ra xe ngồi chờ còn tôi ở lại giúp ông Ken.  Ông gửi mười bưu thiếp đã dán sẵn tem, nhiều hơn 14 ngàn, dư tiền tem thì không sao.  Xếp hàng chờ mua tem hơi lâu nên tôi nói ông ra xe trước, tôi cầm tiền đứng chờ.  Sau khi ông ra khỏi bưu điện lên xe, một cô nhân viên khác bảo rằng:

“Tiền tem gửi đi Mỹ giá cũ là 14 ngàn đồng, nhưng đã lên giá cách đây không lâu (một tuần hay một tháng gì đó tôi không nhớ chính xác).  Hiện nay là 23 ngàn đồng.”

“Vậy thì bán cho tôi tem 20 con tem 9 ngàn đồng.”  Tôi hỏi mua tem cho ông Ken vì ông đã mua tem giá 14 ngàn.

Cô nhân viên cho biết không có tem chín ngàn, chỉ có tem bốn ngàn và tem bốn ngàn rưỡi.  Như thế thì gửi một bưu thiếp đi cô sẽ du di bớt cho năm trăm đồng chỉ vì cô không có đủ tem. Cô đếm đủ số tem cho hai loại, tính tiền, và tôi trả tiền.  Nhưng mấy cái bưu thiếp của Brandon đã đưa cho cô nhân viên bưu điện còn thiếu tem.  Tôi không muốn những cái bưu thiếp của anh không thể rời Việt Nam hoặc không đến tay người nhận ở Hoa Kỳ vì thiếu tem.  Thế thì bán cho tôi hai loại tem 4 ngàn đồng và 4 ngàn năm trăm đồng, mỗi loại mười con.  Bưu thiếp nhỏ không có chỗ để dán tất cả tem, các cô nhân viên phải cho bưu thiếp vào một cái bao nhựa trong, dán tem bên ngoài bao nhựa, mở bao ra cho bưu thiếp vào, thấm nước lên tem, dán lên mười cái bao nhựa mất khá nhiều thì giờ và cạn nguồn kiên nhẫn của các cô nhân viên, của tôi và của đoàn tình nguyện ngồi ngoài chờ ngoài xe.

Về sau tôi mới biết trong đoàn chúng tôi có người bị đau bụng đi tiêu chảy, và có người nhịn đi tiểu đã mấy giờ đồng hồ trước đó. 

Họ đã thay đổi tôi như thế nào

Chuyến đi làm việc tình nguyện cho Habitat thay đổi sự suy nghĩ của tôi rất nhiều.  Nó giúp tôi nhận ra những thành kiến lỗi thời trong tôi.

Connie thay đổi cái định nghĩa người lãnh đạo (leader) trong tôi.  Trong một lần trò chuyện Connie cho biết đã từng giải phẫu tim (open heart surgery), thay xương chậu (hip replacement), gãy xương chân vì bị ngã vào mùa đông người ta phải gắn thép hỗ trợ ống xương chân.  Ai bảo một phụ nữ ngoài bảy mươi, thương tích đầy người từ tim đến xương chậu, đến ống xương chân, không thể làm lãnh đạo của một đoàn tình nguyện?

Nelly, Jen, và Mary, đặc biệt là Mary, làm thay đổi cái định nghĩa sức mạnh (strength) của phái nữ trong tôi.  Cả ba cô gái này làm việc nặng nhọc không thua gì các đấng nam nhi trong đoàn.

Mary thay đổi định nghĩa cái đẹp của người con gái Á châu trong tôi.  Jen và Nelly có dáng dấp mảnh mai.  Jen có mái tóc dài tuyệt đẹp, và một thân hình cân đối không thua gì các nữ diễn viên điện ảnh hay các pho tượng nữ thần Hy Lạp.  Nelly dịu dàng, hòa nhã, nhỏ nhẹ.  Ở cô toát ra một vẻ ngọt ngào thường thấy ở phụ nữ Á châu.  Mary khác hẳn Jen và Nelly.  Khuôn mặt cô có nét Á Đông của người Hạ Uy Di, nụ cười rất tươi tắn.  Mary không dữ dằn hay thô thiển, nhưng cái vẻ mạnh bạo bộc trực rất nam tính của Mary làm tôi hơi e dè.  Tôi có cảm tưởng Mary sẽ không nhường nhịn bất cứ một lời nói nào xúc phạm đến cô và những người cô yêu mến (ngay cả khi vô tình).  Chỉ một thời gian ngắn tôi nhận ra cô là người rất nhân hậu, luôn luôn muốn săn sóc sức khỏe người chung quanh (bản tính của một bác sĩ). Cô nhận lãnh và thực hiện công việc giao phó cho cô với thái độ của một quân nhân.  Làm tròn và làm nhiều hơn nếu cần.

Tôi khâm phục Mary và Jen, hai cô gái trẻ thành công trong lãnh vực các cô tự chọn.  Họ công nhận mình là người đồng tính luyến ái và chính thức kết hôn với nhau.  Họ muốn thế giới nhìn thấy, người đồng tính có quyền được sống và yêu thương nhau không phải hổ thẹn với ai cả.

Chuyến đi này cũng làm tôi suy nghĩ nhiều đến ý nghĩa của chữ cho và nhận.  Tôi tránh không dùng chữ “từ thiện” hay chữ “cho” khi tôi làm việc tình nguyện cho Habitat.  Tôi không muốn độc giả hiểu lầm, chủ nhân của ngôi nhà, may mắn được Habitat giúp “cho” căn nhà.  Tôi không phủ nhận người tình nguyện làm việc cho Habitat đã đóng góp rất nhiều công sức và tiền của vào công việc xây nhà này, nhưng chủ yếu vẫn là của và công của chủ nhân.  Điều làm tôi quý trọng phái đoàn Habitat là họ không hề có thái độ thi ơn hay ban phát của cải vật chất.  Mười lăm người (kể cả tôi) đã góp hết sức mình, phục vụ một mục đích, là xây nhà giúp gia đình anh Thoại và chị Nở.  Chúng tôi đã phục vụ trong tinh thần đoàn kết không mưu cầu hạnh phúc hay vinh quang cho cá nhân mình.

Riêng cá nhân tôi, khi đi làm việc tình nguyện, có vẻ như một người đem “cho” của cải và công sức, nhưng trái lại tôi là kẻ được “nhận” những món quà quí báu về mặt tinh thần.  Cái nhận của tôi đã vượt quá mức sự đóng góp vật chất của tôi.  Khi biết đoàn chúng tôi đi tình nguyện làm việc cho Habitat, mọi người đều tỏ vẻ ân cần và đặc biệt rất là quí mến chúng tôi.

Những câu hỏi tôi không thể trả lời

Tôi vui mừng nhận ra Cookie cũng thích viết.  Bà có ý định xuất bản một quyển sách viết về những người phụ nữ bà gặp trong cuộc đời của bà.  Thỉnh thoảng Cookie hỏi tôi, và ghi chép cẩn thận những điều bà nhận thấy trong chuyến đi.  Có những câu hỏi tôi có thể trả lời được.  Thí dụ như cái biểu ngữ gắn phía trên cửa ra vào của căn nhà bên cạnh căn nhà chúng tôi đang xây cất là gì.  “Không có gì quí hơn độc lập tự do.” Tôi dịch câu này ra cho bà.

Có những câu tôi không thể trả lời, nói cho đúng hơn là không thể trả lời hoàn toàn thẳng thắn.  Thí dụ như “Người miền Nam Việt Nam có kỳ thị người da màu không?  Họ đối xử như thế nào với quân nhân Mỹ da màu?” “Vì sao nhà cầm quyền không cho phép đoàn Habitat tặng sách vở bút mực cho các em học sinh nhưng lại cho phép tặng các em cô nhi?  Có phải vì đa số các em trong làng cô nhi là những trẻ em thiểu năng?”

Tôi kể bà nghe tôi có một “người bạn” da màu.  Ông ấy tên William Fox, đóng quân ngay phía sau căn nhà tôi ở, Tân Qui Đông năm 1968 hay 69.  Ông thường hay cho tôi kẹo.  Qua những lời ông nói, cộng thêm cách diễn tả bằng tay chân, và một chút tiếng Anh của chị Tiền nhà bên cạnh, tôi biết năm ấy ông 21 tuổi và thích mấy cô điếm ở gần cầu Hàng, Tân Thuận Đông, khu vực đèn đỏ từ thập niên sáu mươi đến giữa thập niên bảy mươi.  Ngay lúc ấy nếu tôi có kỳ thị màu da của ông ấy có lẽ tôi không biết, bởi vì tôi nằm gọn trong hội chứng thành kiến của xã hội, không thể có cái nhìn của người nằm “outside the box”.  Tôi thích kẹo William Fox cho.  Và chuyện ông thích mấy cô điếm tôi nghĩ là không tốt.  Bây giờ, tôi biết ông có thể bị kỳ thị ở bất cứ nơi đâu, ngay cả trong quốc gia (của ông), trong quân ngũ (của ông), và dĩ nhiên trong xã hội người Việt ở chung quanh.  Ngay cả con của những người da màu ở VN còn bị kỳ thị thì nói gì những người cha da màu đã bỏ lại những đứa con rơi.

Tôi không biết, thật sự, nhà cầm quyền địa phương có cấm đoán việc tặng sách vở bút mực cho học sinh không.  Anh thông dịch viên là người rất dễ mến, nhưng tôi không thể loại trừ trường hợp, anh ấy không muốn mang thêm trách nhiệm vào mình, nhất là phải đương đầu với cơ sở chính trị và tôn giáo địa phương.  Có thể để tránh tai họa cho bản thân anh đã không chuyển lời yêu cầu tặng sách vở cho học sinh, hay hội ý với nhà cầm quyền địa phương.  Làm sao biết được sách vở ấy in gì, nói gì, tuyên truyền gì, theo tôn giáo nào bài bác tôn giáo nào.  Bà Connie nói đùa, có lẽ người ta sợ các em học sinh có thể nhận ra là người Mỹ chúng ta rất đáng mến. 

Một câu hỏi khác tôi không thể trả lời, đó là tại sao người ta đổ rác lên những ngôi mộ.

Rác là một vấn đề trầm trọng, không chỉ ở VN mà ở cả thế giới, kể cả những quốc gia giàu mạnh như Trung quốc và Hoa Kỳ.  Đầu ngõ vào căn nhà đoàn Habitat đang giúp xây cất, có vài căn mộ cũ, có vẻ như bỏ hoang, bị người ta đổ rác chung quanh và ngay trên mộ.  Một người đi chung đoàn hỏi tôi, đây là nơi cần được kính trọng, tại sao người ta đổ rác lên mộ.  Tôi không có câu trả lời.  Tôi không nỡ nói là người dân tôi không có ý thức.  Không kính trọng mồ mả, nơi cư trú của người đã chết, tức là không tự kính trọng mình.

Figure 27 – Al Belais đứng ngắm ngôi mộ.  Ngôi mộ bên cạnh bị đổ rác, tôi không đành lòng chụp ảnh ngôi mộ bị thiếu kính trọng.

Những lúc vui chơi

Làm việc chăm chỉ nhưng chúng tôi có những buổi nghỉ ngơi như đi tắm biển Mỹ Khê, đi chơi núi Ngũ Hành Sơn và đi xem Hội An.  Ở Hội An chúng tôi đi xem vài ngôi chùa và đi thuyền ra cửa Đại.  Chúng tôi ăn tối trên thuyền, và đốt đèn cầy cắm lên hoa sen giấy thả trôi trên sông. 

Anh hướng dẫn viên đưa chúng tôi đi thuyền trên sông là một thanh niên gầy, nhỏ nhắn.  Anh nói tiếng Anh ngập ngừng nhưng anh cố gắng hết sức và rất tích cực trong việc săn sóc chúng tôi cho có bữa ăn ngon và giải trí vui vẻ.  Chúng tôi ngồi xe jeep (của Mỹ hay quân đội cũ trước năm 75) được chở vòng quanh Hội An, và ngoại ô của Hội An rất thú vị.  Đêm cuối cùng ở Đà Nẵng, Ryan đã làm thủng túi tiền của Connie bằng cách tổ chức bữa ăn tối từ giã ở một nhà hàng đắt tiền.  Như một đứa cháu bướng bỉnh cố tình trêu chọc bà, anh và chúng tôi đã gọi những món ăn đắt hơn giá bà Connie ấn định trước, khiến bà phải một phen tính toán và lo nghĩ.  Rob Engh, một người bạn tốt và cũng là một gentleman chính hiệu đã đề nghị giúp Connie trả phần tiền vượt mức ấn định.  Tuy nhiên tôi nghĩ với kinh nghiệm sẵn có, bà Connie đã ấn định giá hơi thấp hơn cái giá mà bà muốn để trừ hao. 

Figure 28 – Nhóm nam nhi ở trước quán rượu Dude Bar ở Đà Nẵng

Figure 29 – Chụp chung bức ảnh trước ngày chia tay

Figure 30 – Xuống núi Ngũ Hành Sơn

Figure 31 – Trên tàu từ Hội An đi ra cửa Đại

Figure 32 – Chờ nhau trước một cửa hàng ở Hội An.

Figure 33 – Từ trái qua phải hướng dẫn viên nói tiếng Anh, Eric và những bức họa tattoes, và Rob D. Engh.

Trên lưng của Eric, bức họa phía trên có hình thánh giá là huy hiệu của gia đình anh, bức họa bên dưới là phong cảnh một cánh rừng ở gần nhà anh, và trên cánh tay là bức họa về hội yêu thích câu cá hồi.

Chia tay

Rồi thì cũng đến lúc chúng tôi chia tay.  Tôi nhớ một bài hát của Hướng Đạo.

Gặp nhau đây rồi chia tay. Ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây. Niềm hăng say, còn chưa phai.  Đường dài sông núi hẹn mai ta sum vầy.

Chuyện sum vầy cả đoàn có lẽ sẽ khó.  Al Belais không chịu nổi thời tiết nóng của Việt Nam.  Ngay cả tôi đã từng sống ở Sài Gòn những 25 năm cũng thấy rã rời ngộp thở vì nóng.  Bà Connie thì không muốn lo món ăn sáng trưa chiều liên tiếp hai tuần cho cả đoàn.  Tuy thế, tôi vẫn hy vọng sẽ có vài người trong đoàn trở lại vì yêu mến Việt Nam.  Yêu mến như Graham Greene đã viết trong quyển “The Quiet American.”

“I can’t say what made me fall in love with Vietnam – that a woman’s voice can drug you; that everything is so intense. The colors, the taste, even the rain. Nothing like the filthy rain in London. They say whatever you’re looking for, you will find here. They say you come to Vietnam and you understand a lot in a few minutes, but the rest has got to be lived. The smell: that’s the first thing that hits you, promising everything in exchange for your soul. And the heat. Your shirt is straightaway a rag. You can hardly remember your name, or what you came to escape from. But at night, there’s a breeze. The river is beautiful. You could be forgiven for thinking there was no war; that the gunshots were fireworks; that only pleasure matters. A pipe of opium, or the touch of a girl who might tell you she loves you. And then, something happens, as you knew it would. And nothing can ever be the same again.”

“Tôi không thể nói điều gì đã khiến tôi yêu mến Việt Nam – nó như cái giọng nói của một người đàn bà có thể mê hoặc người ta; hay là tất cả mọi sự vật ở đây đều xảy ra ở mức độ đậm đà đến kịch liệt.  Từ màu sắc, đến hương vị, thậm chí ngay cả cơn mưa.  Mưa ở đây thật chẳng giống tí nào những cơn mưa nhớp nháp ở Luân Đôn.  Người ta nói, bất cứ điều gì bạn tìm kiếm, bạn sẽ gặp ở đây.  Người ta nói, bạn đến Việt Nam và bạn sẽ “ngộ” rất nhiều điều chỉ trong một vài phút, nhưng tất cả những phần còn lại bạn phải “sống” để hiểu.  Mùi hương: đó là “tiếng sét ái tình” tấn công bạn, hứa hẹn tất cả mọi thứ để đánh đổi linh hồn bạn.  Và cái nóng.  Áo của bạn sẽ trở thành miếng giẻ rách ngay tức khắc.  Bạn sẽ không thể nhớ nổi cái tên của bạn, hay những điều bạn đến đây để lẩn tránh. Tuy vậy, ban đêm sẽ có chút gió nhẹ.  Con sông đẹp vô cùng.  Người ta có thể bỏ qua cho bạn vì bạn dám nghĩ rằng nơi đây không có chiến tranh; rằng tiếng súng chỉ là tiếng pháo nổ; rằng chỉ có lạc thú là quan trọng.  Một điếu thuốc phiện, hay cái vuốt ve của một cô gái, người có lẽ sẽ nói yêu bạn.  Thế rồi, chuyện đó xảy ra, như bạn biết là nó sẽ đến.  Và tất cả mọi thứ đều không thể trở lại nguyên vẹn như xưa.”

Tôi hy vọng!

Nguyễn thị Hải Hà

Tháng 4. 2019

8 thoughts on “Chuyến đi tình nguyện phần cuối cùng”

  1. Cám ơn Hà một ký sự hay và đầy tình cảm và cám ơn Hà đã trích ra đoạn tâm đắc của Mai trong “Quiet American.”, trong đó có thêm một câu: …but to lose you is the beginning of death to me.
    và cám ơn Hà đã đăng bài ở đây nên không phải vào Gió-O : )

      1. Chuyện xả rác trên mộ có lẽ vì chủ thuyết vô thần không coi trọng con người, tâm linh, thần thánh. Ngay cả những mộ phần của người quá cố nằm trên những vùng đất đẹp có triển vọng tốt cho ngành du lịch cũng bị khai quật san bằng để xây lên resort.

        Những câu trăn trở của Hà muôn năm sẽ vẫn còn hỏi bởi vạn người khác và sẽ rơi vào thinh không vì không có giải pháp để thay đổi. Sadly, they all fall on deaf ears Hà ạ.

  2. Đọc và cảm nhận từng ý chị truyền đạt. Họ là những con người có tấm lòng cao cả, em cám ơn chị về những gì chị chia sẻ.

Leave a comment