Hôm nay là ngày cuối của mùa hè vì theo lịch báo ngày mai là ngày bắt đầu mùa thu. Liên tiếp hai hôm nay trời lạnh. Thật ra trời không mấy lạnh, giữa ngày thấy cô em út mặc áo sát cánh mang chè bắp qua cho đi ngoài đường tỉnh bơ, mà tôi ở trong nhà đã phải mặc hai ba lớp áo. Chẳng qua tôi là bà già không chịu lạnh dù đã ở Mỹ ngót nghét bốn mươi năm.
Vậy đó, đã hết mùa hè. Đừng có kêu lên ai chở mùa hè của tôi đi đâu. Mùa hè của tôi trải dài mấy tháng dọc theo bờ kênh D&R, tôi đi bộ hoặc đi xe đạp một tuần đôi ba lần. Dọc đường thấy người ta câu cá rất nhiều. Mùa hè thời dịch bệnh Covid-19, báo đăng, số bán xe đạp, ca nô, kayak, cần câu cá tăng lên vùn vụt. Câu cá xem chừng là một thú vui giải trí khá an toàn, nhất là câu cá trên kayak. Ở giữa dòng nước chỉ có mình, hoặc thêm một người đồng hành quen thuộc và tin cậy.

Lúc đi ngang hồ Carnegie gần Princeton thấy có một gia đình người châu Á đang câu cá. Hồ này rất rộng nhưng nước cạn vì thấy các bé ngồi tuy gần bờ nhưng dưới nước.

Dòng kênh phía trước mặt người đi câu này bị bụi rặm che khuất nên có vẻ như anh ta câu trong bụi rặm.

Ảnh này chụp người đi câu trên hồ Surprise ở Watchung Reservation.

Người này câu cá trên dòng kênh Delaware and Raritan Canal.

Ông này câu cá kiểu nhà giàu. Thuyền máy. Ông câu ở hồ Carnegie, thuộc dòng kênh D&R, gần khu vực Princeton. Hồ này đẹp lắm.

Hai cô cậu này câu ở bờ hồ Surprise, Watchung Reservation.

Dọc theo dòng kênh D&R có nhiều nơi người ta có cổng để dẫn nước vào hay ngăn nước lại. Những chỗ này gọi là lock. Kingston, New Jersey, là một thành phố nhỏ, có di tích cổ. Thấy New Jersey có Princeton, rồi lại có Kingston, Princeton có nghĩa là lãnh thổ của hoàng tử. Kingston là lãnh thổ của vua. Vậy mà Princeton lại to lớn hơn, nổi tiếng hơn, giàu có trù phú hơn. Nơi đây có đại học nổi tiếng mà ngày xưa thiền sư Nhất Hạnh là sinh viên. Kingston Lock nơi dòng kênh D&R nối với hồ Carnegie có cái đập rất rộng. Từ nơi này nhìn thấy ngôi nhà cổ trước kia là nhà máy thủy điện dùng sức chảy của nước để xay bột. Nơi này luôn luôn có rất nhiều chim. Cormorant (chim cốc), blue heron (hạc xám), Canada geese (ngỗng Canada) và nhiều loại chim khác đậu sẵn ngang bờ đập giữa dòng nước chảy để săn cá. Và hôm nào đó đi ngang tôi thấy rất nhiều ca nô đến tranh cá với các loại chim này.

Đi bộ với ông Tám ở gần Canal Park, về hướng 5 mile lock tôi gặp hai ông cháu câu được con cá này. Không biết cá gì trông khá lớn, cỡ một kí. Nhìn con cá thấy nhỏ có lẽ vì bụng của người ông khá to. Hai ông cháu, câu, cân cá bằng cái cân tay, chụp ảnh, rồi thả cá trở lại nước chứ không mang về. Điều này khiến tôi suy nghĩ, tại sao người ta đi câu cá, nếu không chỉ vì muốn bắt cá, có cá ăn.
Phải nhìn nhận là người Mỹ họ sung sướng thật. Họ biết ăn chơi và có khả năng để ăn chơi. Có một chiếc thuyền nhỏ, giương buồm trên hồ, gần sát nhà, rong chơi, câu cá. Trong nắng, trong gió. Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo có vẻ như nằm gọn trong túi tiền của họ.

Người Mỹ dùng từ “gone fishing” hay đi câu để ám chỉ việc ngưng công việc đang làm để đi làm một công việc gì đó có tính chất hưởng thụ, hay nghỉ ngơi.
Người ta đi câu để làm gì? Dĩ nhiên là để bắt cá. Nếu chỉ để có cá thì vào chợ mua có phải dễ dàng đỡ mất thì giờ không? Tôi nghĩ, người ta đi câu, không phải chỉ vì cá, mà vì nhiều thứ khác. Thí dụ như?
Phải chăng người ta đi câu cá để tránh công việc nhà? Ra khỏi nhà, thoát được sự điều động công việc, cắt đặt sai bảo của mẹ, hay của bà vợ thích cằn nhằn. Đến chỗ, ngồi đó thả câu, được cá hay không, không cần thiết. Ít nhất ông câu cũng được một thời gian yên tĩnh, không phải làm việc nhà và bị rầy.
Đi câu, là cơ hội để gặp bạn bè, nếu không phải là bạn thì ít ra cũng là những người có chung sở thích.
Với Hemingway “as you go out, seeing friends along the water front – lottery-ticket sellers you have known for years, policemen you have given fish to and who have done favors in their turn, bumboatmen who lose their earnings standing shoulder to shouder with you in the betting pit at the jai-alai fronton, and friends passing in motorcars along the harbor and ocean boulevard who wave and you wave to but cannot recognize at that distance, although they can see the Pilar and you on her flying bridge quite clearly – your feather jig is fishing all the time.” (Hemingway, 1974) p. 683
Để đây, bữa khác sẽ dịch và viết tiếp.
Vậy chị Tám có câu cá bao giờ chưa? Vài lần em theo bà con đi coi người ta câu chứ em không câu. Ngồi yên bên sông cũng có cái thú vị nếu đủ yên tĩnh chung quanh, và trong tâm mình. Nhưng dễ bị muỗi chích lắm.
LikeLiked by 1 person
Hồi xưa có một lần.
LikeLike