Đây là ảnh của tượng Angel of Water (Thiên Thần ban phép lành cho nước) ở quảng trường Bethesda giữa Central Park, khoảng đường 72 nối liền Central Park West và 5th Ave. East. Bức tượng bằng đồng cao 8 ft. (2.43 m) lấy tích trong Thánh Kinh Gospel of John, chương 5. Theo tích này vị thiên thần ban phép lành cho hồ nước Bethesda nên nước này có thể dùng để trị bệnh. Thiên thần này trên tay có một đóa hoa lily, còn tay kia ban phép cho hồ nước dưới chân nàng. Bên dưới bệ chỗ thiên thần đặt chân có bốn vị tiểu thiên sứ (cherubs) tượng trưng cho Điều độ (Temperance), Tinh khiết (Purity), Sức khỏe (Health), và An bình (Peace).
Đây là nơi được thu hình trong rất nhiều phim ảnh Hoa Kỳ. Một vài thí dụ như: Godspell, Home Alone 2, Angel in America, Ransom. Tác giả của tượng là Emma Stebbins, người phụ nữ đầu tiên được mời làm thiết kế một công trình điêu khắc quan trọng của thành phố New York. Tượng khởi đầu năm 1868 và khánh thành năm 1873. Dưới hồ có nhiều hoa sen, hoa súng và cây cói giấy được trồng trong những chậu nhỏ có thể mang ra khỏi bồn nước dễ dàng. Đường đi quảng trường có hai dãy cầu thang trên tường có nhiều hình ảnh hoa văn rất đẹp.
Đây là chỗ biểu diễn của nhiều nhóm nghệ sĩ. Ngày Chủ Nhật gần cuối tháng 10, tôi thấy người ta đang diễn trò và break dance. Những lần khác có nhiều buổi trình diễn nhạc, đơn ca, hợp ca, đàn phong cầm, hòa tấu vĩ cầm, v.v…
Ngày xưa con còn bé thì mẹ dẫn đi chơi. Bây giờ thì ngược lại, mẹ già được con đưa đi chơi. Tôi nghe và nhìn thấy về hiện tượng empty nest. Nhiều người bạn quen biết với tôi thấy cô đơn khi tuổi già vì con cái đã rời khỏi gia đình. Rồi tôi cũng sẽ đến lúc ấy, nhưng bây giờ thì chưa. Biết con mình ngày càng lớn, càng đi xa, ít có dịp gặp con, nên tôi rủ con tôi đi chơi New York. Đây là một thành phố rộng lớn có rất nhiều thứ để xem, đi xem cả tháng cũng còn những thứ mình chưa xem chưa biết. Nội cái viện bảo tàng thiên nhiên ở New York, đi xem một ngày cũng chỉ được một phần nhỏ mà thôi. Còn viện bảo tàng nghệ thuật và Cloisters và MOMA và nhiều thứ nữa. Cô út hỏi tôi có muốn đi xem viện bảo tàng Cooper Hewitt không, tôi ừ ngay lập tức. Thứ Sáu tôi nghỉ một ngày, đi theo con. Tôi thích nhìn theo tầm nhìn của một người trẻ tuổi, bởi vì nó rất khác biệt với cái nhìn của mình. Đây là một chuyến đi rất thú vị, tôi học hỏi nhiều thứ hoàn toàn nằm ngoài sự hiểu biết hằng ngày của tôi.
Cô hoàn toàn tổ chức chuyến đi, từ chuyện đi xe lửa chuyến nào, giờ nào. Đi hướng nào đường nào, y như bố cô vậy. Nhưng bố cô lái xe còn hai chúng tôi không ưa chuyện phiền toái lái xe vào New York, chật chội, tìm chỗ đậu v.v…
Đi xe lửa vào New York, đi xe điện ngầm uptown tuyến C, xuống trạm 86, băng ngang Central Park.
Central Park đi chục lần vẫn còn muốn đi ngang. Tôi hẹn mình sẽ trở lại Central Park chụp cho hết ảnh những cái cầu.
Trước khi vào Cooper Hewitt (C. H.) chúng tôi đi ăn brunch ở một quán ăn kiểu Úc. Quán là một cái “chái” nhà thờ, chẳng biết gọi là alcove có đúng không. Nó là một cái phòng rất nhỏ trước khi vào phần chính của giáo đường. Cái chái này là cái phòng nhỏ của nhà thờ “Heavenly Rest.” Biến cái phòng nhỏ này thành một thứ café, có wifi, tôi sạc điện cho cái điện thoại ở đây, đề phòng tôi sẽ dùng hết điện vì chụp ảnh.
Tôi đã ăn sáng ở nhà, nhưng thấy cô ăn tôi cũng ăn. Gọi món giống như món cô gọi. Bánh mì nướng, bên trên là một lớp trái bơ thật dày. Phần ăn của cô có thêm quả trứng, phần của tôi không. Một chút nước sốt chua chua ngọt ngọt, vài miếng cà chua nhỏ như trái anh đào rất ngọt, vài cọng giá alfalfa và một ít cheese.
Ngay từ lúc ở ngoài cửa bảo tàng tôi đã thấy rất hứng khởi vì thấy bảng giới thiệu phim của Pixar. Viện bảo tàng khá nhỏ so với các viện bảo tàng khác. Đây là một viện bảo tàng của tư nhân, chuyên về design, thiết kế, mẫu quần áo, đồ trang sức, các mẫu vẽ sáng tạo như giấy dán tường, vải, kiến trúc, v.v… nhiều thứ lắm không thể nào gồm lại trong một câu. Bảo tàng là một nhánh của Smithsonian. Người trẻ, học sinh trung học, đại học, hai mươi ba mươi tuổi, đi xem chỗ này nhiều hơn người lớn tuổi.
Ấn tượng đậm nhất của tôi là khoa học kỹ thuật được áp dụng vào thiết kế sáng tạo. Đầu tiên chúng tôi được giao cho mỗi người một cây bút điện tử. Cây bút có hai đầu, đầu lớn có cái nút nhấn bên trên đóng dấy chữ thập. Đầu nhỏ nhọn giống như đầu cây bút. Khi gặp một vật đang được trưng bày, nếu muốn ghi nhận tài liệu về vật này, tôi ấn cái đầu chữ thập vào cái chữ thập trên bảng giới thiệu vật đang trưng bày. Tất cả chi tiết về vật trưng bày sẽ thu về một account của tôi, về nhà tôi chỉ cần gõ mã số bảo tàng dành cho tôi, sẽ tìm thấy những điều tôi đã ghi nhận.
Cái đầu nhỏ của cây bút có công dụng khác. Rất nhiều nơi trong bảo tàng có những cái bàn điện tử. Cây bút được dùng để chọn những đề tài người xem muốn tham khảo, bằng cách chọn một cái bong bóng đang bay trên mặt bàn có hình ảnh và chi tiết gói trong bong bóng. Kéo cái bong bóng bằng cây bút đến chỗ mình đang đứng, trước mặt trên bàn có một ô vuông dành riêng cho người sử dụng. Người xem có thể thêm bớt chi tiết, tự vẽ mẫu mã, chọn màu sắc, vật liệu để thiết kế thành một món đồ và nhìn thấy món đồ trong không gian (3D).
Cách kể chuyện bằng hình ảnh của hãng phim Pixar và các họa sĩ chuyên vẽ ảnh làm phim biểu lộ quan điểm nghệ thuật của họ.
Ghé tiệm bán đồ kỷ niệm của bảo tàng, thấy hộp chứa mấy bao nhang có chữ Việt. Không biết một gói nhang bán bao nhiêu ở VN nhưng ở bảo tàng giá là 13 Mỹ kim.
Đây là một thiết kế đặc biệt của Jenny E. Sabin. Một loại chỉ tơ có thể hút ánh sáng và tỏa ra ánh sáng. Nhẹ và mềm có thể cuốn lại, trong tương lai có thể được dùng làm lều cắm trại vì nó hút ánh sáng mặt trời và tỏa ra ánh sáng vào buổi tối.
Còn nhiều hình ảnh lắm, kể không hết, chỉ thêm vài tấm ảnh thú vị. Từ trái qua phải, trên xuống. Thủy tinh nấu chảy, làm thành cái lọ bằng từng lớp thủy tinh. Ánh sáng rọi qua lọ lung linh thành hình những đóa hoa ánh sáng.
Mấy cái lồng chim được thiết kế mỹ thuật, đồ sưu tầm của những vị chủ nhân, vốn là cháu (ngoại) của ông Cooper Hewitt, chủ cái gia tài đồ sộ này. Lúc khác tôi xin được viết thêm về một vài món trưng bày thật là thú vị trong bảo tàng này.
Một ngày rất gần tôi sẽ trở lại xem tiếp. Giá vào cửa khá rẻ. Con tôi mua vé cho tôi với giá senior, và vé của cô giá học sinh. Tôi nhớ cô bạn ở Austin lợi dụng mái tóc bạc của tôi và của cô mua vé senior cho chúng tôi. Chẳng ai kiểm sóat xem mình có nói láo không, vì làm thế là mất lịch sự, và chẳng ai muốn công nhận là mình già hơn tuổi bao giờ. Phải không?
Tôi nói với con bé, về sau mình sẽ khó có dịp đi chơi chung như thế này, vì con càng lớn càng (đi) xa, mẹ càng lúc càng già. Rồi sẽ có lúc con có gia đình riêng, cuộc sống riêng. Rồi mẹ sẽ già lụm cụm đi không nổi. Cô nói, mẹ ngồi xe lăn con đẩy mẹ đi. Không, không, mẹ không muốn làm phiền con như thế. Con nhỏ này đã từng hứa là khi nào con lớn con sẽ mua cho mẹ xe hơi loại thể thao màu đỏ mui trần đây. Ngày xưa, mình mà hứa với tụi nó cái gì thì phải lo mà giữ lời. Bây giờ mình tự nhủ đừng có vin vào lời hứa của con mà đâm ra mơ mộng hão.
Có đứa con chịu đưa mình đi chơi là tuyệt vời quá chừng rồi, phải không?
Người Mỹ có hai chữ để chỉ đá, stone và rock. Có lẽ còn nhiều chữ hơn nữa nhưng tôi chỉ biết có hai chữ thường dùng. Mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa phân biệt được khi nào dùng stone, khi nào là rock. Dường như khi có chút mài dũa, từ bàn tay loài người hay từ thiên nhiên người ta gọi là stone. Tự nhiên không được mài dũa người ta gọi là rock. Tôi nói hình như bởi vì kim cương, sau khi được mài dũa cẩn thận bóng loáng, người ta vẫn gọi là rock. Dĩ nhiên gọi là rock với chút đùa cợt. Thí dụ như lấy viên đá kim cương, được làm thành nhẫn cho một cô dâu danh tiếng nào đó, chọi một cái là lỗ đầu. Kim cương trong trường hợp này người ta gọi là rock. Trong khi những thứ đá quý như ruby (hồng ngọc), jade cẩm thạch gọi là stone.
Tôi với chút lẩm cẩm của người già, và chút hiếu kỳ của trẻ nhỏ, hay chú ý đến đá, nhất là đá trong vườn. Công viên, ở những nơi có nhiều đá người ta trồng hoa chen vào giữa đá.
Người Nhật, có khi chỉ dùng đá để tạo thành vườn. Chỉ toàn đá và cát, khô khan đạm bạc, tạo thành một vẻ đẹp wabi. Vào một công viên Nhật là thấy đá được kết hợp hài hòa với hoa lá cây cỏ. Đá ven bờ hồ, đá tạo thành lối đi, nhưng không được phép đi lên. Ở vườn Nhật Bản Brooklyn những người đứng gác có những đôi mắt như cú vọ sẵn sàng lên tiếng nếu du khách bước lên đá hay bước vào giữa hoa để chụp ảnh. Bước vào giữa vườn hoa, hay đồng hoa ruộng hoa, là thói quen của những cô gái Việt Nam, dường như nhờ cái đẹp của hoa để làm tăng thêm vẻ đẹp của mình, không sợ là mình sẽ dẫm lên hoa lên cỏ làm mất đi vẻ đẹp.
Nói đến đá tôi chợt nhớ đến những đồi đá ở ngay một trong những cổng vào Central Park ở New York. Bạn có thể tưởng tượng ra sự thất vọng của tôi khi có người bảo rằng những ngọn đồi đá trọc này làm bằng xi măng. Vì một lý do nào đó mà người ta phá hủy hay dời đi mấy cái đồi đá này và phải dùng xi măng để thay thế. Khó mà phân biệt đá giả và đá thật.
Vườn đá ở công viên Forrest Oaks Austin Texas.
Đá trong vườn Nhật Bản ở Austin
Đang vội phải đi làm nên không minh họa được. Sau đây là vườn đá của Hoa Kỳ, một góc nhỏ trong vườn bách thảo Brooklyn New York
Đây là ảnh của đôi tình nhân Romeo và Juliet. Họ đứng hôn nhau muôn đời trước hí viện Delacorte Theater trong Central Park nơi trình diễn kịch của Shakespeare hằng năm vào mùa hè. Khách xem tự do không phải trả tiền. Tùy theo sự hảo tâm của khán giả ai muốn giữ truyền thống văn hóa thì đóng góp. Vì là nơi xem diễn kịch free nên không dễ gì có vé vào cửa. Người muốn xem kịch có thể đăng ký online may nhờ rủi chịu, hay xếp hàng trước cửa nhà hát từ sáng sớm (6:30 am) đến trưa thì người ta phát vé, đến tối (8:00 pm) mới diễn kịch. Hằng năm người ta đều qui tụ được những diễn viên thượng thặng để đóng kịch Shakespeare như Al Pacino, Sam Waterston, v. v… . Ai không muốn đứng xếp hàng, nhưng muốn xem kịch có thể tặng ban tổ chức kịch một số tiền trước khi mở mùa kịch, năm có Al Pacino diễn người xem chỉ cần tặng ba trăm Mỹ kim thì sẽ được hai vé vào xem kịch. Ba trăm Mỹ kim ở New York City thì không phải là một con số to tát gì. Những vở nhạc kịch ở Broadway cũng có giá tương đương. Continue reading Đôi tình nhân muôn đời hôn nhau
Tuần trước, lễ Độc lập của Hoa Kỳ nhằm ngày thứ Năm, tôi lấy thêm ngày nghỉ thứ Tư và thứ Sáu. Giỗ bà cụ mẹ ông Tám ban đầu dự định tổ chức ở nhà tôi nhưng cuối cùng bà chị ông Tám đãi tiệc một công ba chuyện, giỗ mẹ, mừng con trai chị tốt nghiệp đại học, mừng một cháu trai con của người anh tốt nghiệp Tiến sĩ. Ở buổi tiệc ông Tám báo là sẽ có người chú ở bên Pháp sang Mỹ đi du lịch. Ông Tám mời tất cả gia đình đến dự tiệc ở nhà tôi. Tôi nấu ăn dở nên hỏi cô em chồng có đồng ý nấu giúp nếu tôi đưa tiền chợ hay không thì cô lắc đầu nguầy nguậy. Cô nấu ăn khéo nhất nhà, đảm đang nhất nhà, nhưng bây giờ thì cũng đã mệt mỏi chuyện nấu ăn phục vụ họ hàng lắm rồi. Còn tôi cứ mỗi khi nghe tiệc tùng, ngay cả chỉ cắp đít đi ăn thôi không làm gì cả, là tôi cứ như một đám cỏ héo rũ liệt. Tôi chỉ muốn lủi vào một góc tối để nằm ngủ, hay chỉ nằm mà không ngủ cũng được.
Tuần này, tiệc sẽ tổ chức vào chiều Chủ Nhật. Tôi xin nghỉ nửa ngày thứ Tư, trọn ngày thứ Năm và thứ Sáu.
Sáng thứ Tư, tôi chuẩn bị đi làm, ông Tám bảo rằng chị H. bạn cũ của ông T. (T. là người quen sơ sơ của ông Tám) cùng với ba người con đã trưởng thành từ bên Bỉ sang Mỹ chơi từ tuần trước. Thứ Năm tuần trước ông Tám đã mời ông T. về nhà ăn cơm, ngủ lại qua đêm. Sáng thứ Sáu (tuần trước) ông T. ra đi đến New York đón gia đình chị H. Tôi vội vàng đi làm, đi cho nhanh vì tôi không muốn nghe kế hoạch sắp đến của ông Tám. Lấy ông mấy chục năm tôi biết ý nghĩ của ông lắm dù tôi không nói ra. Tôi biết là ông sẽ mời gia đình chị H. đến ăn cơm sau khi ông đưa chị H. viếng thăm New York. Ở chỗ làm, ông Tám gọi điện thoại báo cho tôi biết ông mời gia đình chị H. đến ăn cơm (tối thứ Tư vừa qua). Tôi cũng đoán trước cú điện thoại của ông.
Trưa thứ Tư tôi về sớm. Trên xe lửa gặp một gia đình người Đức đi du lịch sang Mỹ. Người đàn ông (chủ gia đình) nói tiếng Anh rất giỏi. Ông có vẻ là người có kinh nghiệm du lịch, thay vì ở khách sạn ở New York rất tốn kém, ông thuê một chiếc xe RV (residental vehicle loại xe đi cắm trại hay đi chơi xa, như một cái nhà nhỏ có thể nấu ăn, có chỗ tiểu tiện có thể ở nguyên gia đình bốn hay năm người), xe ông thuê nằm giáp ranh của tiểu bang New Jersey với Pennsylvania nên ông với vợ và ba con đáp tuyến xe lửa tôi đi. Ông ở Tây Đức, bảo rằng tuy đất nước ông đã thống nhất nhưng dân cả hai bên vẫn còn những tư tưởng hiềm khích nho nhỏ. Hiện nay Đông Đức được hệ thống đường cao tốc đẹp và rộng trong khi Tây Đức vẫn đông đúc chật chội. Đại khái, những tị hiềm mà một quốc gia chia cắt nhiều năm, vẫn cảm thấy dù đã nhập thành một. Cũng như Việt Nam. Ông tưởng tôi là người Đại hàn nên bảo rằng ông thấy việc Đại hàn vẫn còn chia cắt là điều đáng buồn. Tôi nói tôi là người Việt nam và Vn đã thống nhất, nhưng tôi ở hải ngoại mấy mươi năm rồi nên không còn biết gì về chuyện trong nước, ngoại trừ tin tức trên mạng. Gọi bằng ông vì là người lạ, chứ thật ra ông chỉ mấp mé năm mươi thôi. Người Đức là giống dân cao lớn. Vợ ông cũng rất cao lớn, bà tảng lơ ngồi đọc một quyển truyện Anh ngữ dày cui. Ông cho biết ở Đức, Anh ngữ được dạy trong trường từ Tiểu học.
Gia đình chị H., từ Bỉ sang chơi đi một vòng New York, Washington DC, Florida. Ở Bỉ học sinh cũng được học Anh và Pháp ngữ từ nhỏ, nhưng đa số dùng tiếng Hòa Lan hay tiếng Pháp để trò chuyện với nhau. Cô con gái lớn của chị H. 24 tuổi nói thông thạo tiếng Anh, Pháp, Hòa Lan, Đức, và dĩ nhiên tiếng Việt. Chúng tôi nói chuyện với cô bằng tiếng Anh. Cả ba cháu con của chị H. , và ông người Đức tôi gặp trên xe lửa đều than phiền vật chất ở New York quá đắt đỏ. Cô ngạc nhiên tự hỏi vì sao ở New York người ta chỉ đi ăn tiệm trong khi với nếp sống người Bỉ đi ăn tiệm bên ngoài là một sự xa xỉ (cô dùng chữ luxury). Cô ngạc nhiên khi biết những cô gái ở tuổi của cô làm việc ở New York phải ở nhiều người chung một phòng, và tiền nhà thường từ 1500 Mỹ kim trở lên. Họ ít nấu nướng vì họ không có thì giờ nấu nướng và vì chỗ để nấu ăn ở ngay trong thành phố New York cũng là một sự xa xỉ. Có được một chỗ thanh tịnh có vườn có hoa ở New York là một sự đại xa xỉ.
Tuần trước, nghỉ ở nhà, tôi và cô út vào New York đi viện bảo tàng và ghé thăm Central Park. Cô đưa tôi viếng Belvedere Castle và tôi chụp vài tấm ảnh. Cô tưởng tôi chưa biết chỗ này nhưng tôi đã đi với ông Tám hồi mấy năm trước.
Bận tiệc tùng nên không đọc gì, viết gì. Nhận được Tân Văn, hai tờ tuần báo Sài Gòn Nhỏ, và cuốn CosmoViet. Quyển này hấp dẫn nha quí vị phụ nữ.
Mùa hè, bận đi chơi và barbecue nên vắng mặt chút đỉnh nha các bạn. Chúc vui vẻ cuối tuần và nhớ cố tránh cái nóng bức mùa hè.
Bên cạnh Belvedere Castle là một vườn hoa nho nhỏ. Vườn hoa này có tên là Shakespeare Garden vì nó thuộc về khuôn viên của Shakespeare Park Theater. Từ trên Belvedere Castle người ta có thể nhìn thấy một phần ghế của khán giả xem kịch. Tôi và cô út xin những người gác cửa cho tôi vào xem cái theater nhưng họ từ chối.
Bước vào cửa Belvedere Castle là thấy cánh chim này. Nơi đây người ta cho thuê ống nhòm và bản đồ để đi xem chim trong Park
Từ trên đỉnh của Castle nhìn xuống thấy một góc dưới của Castle.
Và nhìn thấy một góc hồ Turtle.
Cửa sổ của Castle, vì cầu thang lên rất hẹp chỉ có chỗ cho một người đi nên người ta đặt tấm kính để biết có người đi lên hay đi xuống mà thay phiên nhau.
Phần chỏm của Castle, nơi đây người ta đặt dụng cụ đo thời tiết.
Dây ivy bao phủ tường đá. Mùa thu những sợi ivy này biến thành màu đỏ thẫm rất đẹp.
Buổi sáng Chủ Nhật chàng đưa tôi đi New York mang theo hai chiếc xe đạp. Chỗ chúng tôi khóa xe là đường thứ 10 và Gansevoort. Cuối đường High Line là đường thứ 30. Sau khi đi hết đường High Line chúng tôi đạp xe dọc theo bờ sông Hudson đến đường thứ 58 chạy thêm chừng hơn chục block nữa để vào West Side của Central Park.
Nơi đây tôi đã đuối sức nên ngồi nghỉ ăn cái hotdog uống nước và chụp tấm ảnh này. Mấy chục năm không đi xe đạp, hôm ấy đạp xe mấy cây số, đường dằn ê ẩm cả cái bàn tọa.
Ở ngay cổng vào Central Park du khách có thể thuê xe xích lô đạp đưa đi chơi vòng quanh. Tôi không biết giá thuê nhưng nếu thuê xe đạp thì 8 mỹ kim một giờ.
Mệt quá tôi nằm lăn trên bãi cỏ. Chú khuyển này đang đi với chủ cũng nằm lăn xuống cỏ nhai cọng cây khô chủ kéo mãi không đi.
Xe ngựa đưa du khách đi vòng quanh Central Park.
Hai cái xe đạp dựa lưng nhau nghỉ mệt.
Nằm ở bãi cỏ ngắm trời cây và đèn đường.
Đang nằm trên bãi cỏ tôi nghe tiếng vĩ cầm của một bản nhạc rất quen mà bất thình lình tôi không nhận ra. Mãi một lúc lâu tôi nhận ra đó là bài Hạ Khúc của Vivaldi. Có nghĩa là phần tôi nghe quen mà không nhận ra là bài Xuân. Tôi không sành nhạc cổ điển, nhớ được bài Hạ khúc vì hôm xưa đọc bài về Thanh Tâm Tuyền nhờ tìm tòi nghe nhiều lần nên còn nhớ loáng thoáng.
Được người đưa đi chơi Central Park suốt ngày Chủ Nhật, xem người làm bong bóng khổng lồ. Trẻ em thả những mơ ước thần tiên vào bong bóng có ngũ sắc cầu vồng. Người lớn thì mơ màng nhớ lại ngày xưa còn bé.
Bốn giờ sáng thức giấc. Nghe tiếng lá reo. Bỗng nhớ hai câu thơ đề trên trang đầu tiên của quyển Khung Cửa Hẹp. Không còn nhớ quyển sách ấy nói gì cũng không nhớ có đọc hết quyển sách ấy hay không. Nhưng hai câu lục bát thì không quên. Đêm nằm dưới lá trong cây. Bữa hôm nay mộng thấy ngày hôm qua. Nhớ thơ nhưng không nhớ tên tác giả. Nhớ câu này vì có lá trong cây. Không hiểu hết câu thơ chỉ đoán là vì ngày qua rồi nên hôm nay nghĩ đến hôm qua như một giấc mơ. Nếu bạn đọc trên trang này thấy vài câu thơ xin cứ mạnh dạn tin là tác giả chép của người khác. Vì tôi rất dở, không biết làm thơ.
Bây giờ ngồi đây mộng thấy ngày hôm qua. Trời gió làm lá reo. Lá reo làm tôi nghĩ đến hai câu thơ. Và tôi nghĩ đến Bùi Giáng, rất có thể ông đã dịch từ hai câu thơ ngoại quốc. Và từ Bùi Giáng tôi nghĩ đến nhà thơ Nguyễn Đức Sơn ngày xưa có người mua trong đống sách bán ở dọc đường Lê Lợi quyển thơ của NĐS tặng tôi. Ông này có nhiều bài thơ rất là kỳ cục vì thế hễ tôi nghĩ đến Bùi Giáng là tôi nghĩ đến NĐS và tôi nghĩ đến người bạn viết văn ngày xưa đã tặng tôi quyển thơ. Tôi không còn nhớ những câu thơ kỳ cục của NĐS chỉ còn nhớ một bài không mấy gì đặc biệt của ông. Ôi biết ngày nào anh trở lại. Vườn xưa cây trái ngả nghiêng sầu. Anh đi trong nắng tàn hoang dại. Thấy lá sầu riêng bạc hết màu. Nhớ bài thơ này là vì đọc ở trên trang của chị CC nói về những cây sầu riêng ở nhà chị đã bị đốn. Không biết đã bao nhiêu năm rồi tôi không được ăn sầu riêng.
Hôm qua nắng đẹp. Buổi sáng mưa một chút đủ ướt lối đi tôi ra ngoài sân quét lối đi vì bao nhiêu là xác hoa rụng. Có nhiều loại hoa không thơm nhưng cũng là hoa, rụng xuống những xác những cánh thành từng nùi từng nhúm khô khốc như xơ mướp như bùi nhùi. Phấn hoa làm khổ sở những người có bệnh dị ứng như tôi. Thế mà tôi lười không đi bộ. Đi thư viện về tôi làm công việc lặt vặt trong nhà và nằm xem phim. Xem lại phim The Hurt Locker. Phim chiến tranh tàn bạo quá. Chợt nghĩ đến pho tượng đồng Romeo and Juliet trong Central Park tôi lấy phim Romeo and Juliet ra xem.
Phim này được hai giải Oscar năm 1969. Có lẽ chiếu ở VN năm 70 hay sau đó. Những ai ở VN sinh năm 65 hay về sau có thể chưa được xem phim này. Chuyện tình của Romeo và Juliet thì xưa quá rồi nên có lẽ ai cũng biết. Xưa vì nó được Shakespeare viết đâu từ năm 1591 và ngay cả đại kịch tác gia này cũng lấy từ những điển tích xa xưa. Juliet con của gia đình Capulet lúc ấy mới 13 tuổi. Còn Romeo con của gia đình Montague hình như 15. Hai gia đình này thù nhau lâu đời. Cứ hễ gặp nhau trên đường là choảng nhau. Không bên này khiêu khích thì bên kia khiêu khích. Thỉnh thoảng bên này giết bên kia oán thù vì thế cứ chất chồng. Anh họ của Juliet là Tybalt giết Mercutio bạn thân của Romeo. Romeo nổi nóng nên giết Tybalt. Bị lưu đày nên Romeo bỏ trốn, bỏ lại người vợ trẻ sau lưng, họ mới lén kết hôn với nhau được ba ngày. Juliet bị cha mẹ ép lấy một ông quan nên cầu cứ với một tu sĩ trong vùng. Ông cho Juliet liều thuốc uống giả chết tạm thời và báo tin cho Romeo biết để chàng trở về đưa Juliet trốn đi. Romeo một mặt được một người gia nhân gấp rút báo tin nên trở về trước khi nhận được thư báo tin của vị tu sĩ. Romeo mua độc dược, uống rồi chết ngay trong nhà mồ nơi giữ xác Juliet. Sau khi tan cơn thuốc nhìn thấy Romeo đã chết, Juliet rút gươm của Romeo tự tử chết theo. Cái chết của hai người trẻ tuổi yêu nhau xóa oán thù của hai giòng họ.
Phim rất đẹp. Olivia Hussey trong vai Juliet đẹp một cách trong sáng ngây thơ, tóc dài màu nâu đậm trông giống như tóc của các cô gái Việt Nam. Cái cách quấn tóc cũng là mode một thời. Tôi mê phim này không chỉ ở truyện tình mà mê những lâu đài thành quách kiểu xưa. Và cái nhà thờ nơi làm lễ cưới của Romeo và Juliet trời ơi làm toàn bằng đá trắng đi đâu cũng thấy sáng rực, và có vẻ rất khô rất sạch, trong khi tôi luôn tưởng tượng bên trong những ngôi nhà thờ đều tối tăm ảm đạm.
Mê nhất là những màn khiêu vũ và trang phục thời xưa. Họ hay mặc nhung màu rêu, màu đỏ, màu tím, màu rượu vang. Trong buổi dạ tiệc của gia đình Capulet, Romeo lẻn đến dự và gặp Juliet ở đó. Thật ra Romeo nghe đồn đến vẻ đẹp của người chị họ của Juliet tên là Rosalyne nên tò mò muốn biết người đẹp này nhưng khi gặp Juliet thì cả hai cùng ngơ ngẩn với tiếng sét ái tình ngay lập tức. Hai người lén gặp nhau dưới bàn thờ, trao đổi cái hôn đầu tiên trong khi ngoài kia người ca sĩ đang hát bài hát chính trong phim này. Bài hát đã được viết lời Việt như sau: Giây phút êm đềm, ngày ta gặp nhau, mắt môi thầm trao, những câu ân tình, biết bao là âu yếm.
Bài hát có những câu tiếng Anh như thế này: What is a youth? Impetuous fire. What is a maid? Ice and desire. The world wags on. A rose will bloom. It then will fade. So does a youth. So does the fairest maid.
Xin làm tài lanh dịch ra tiếng Việt để hiểu thôi chứ không thể hát theo. Chàng trai trẻ là gì? Là cơn lửa cháy bùng dữ dội. Cô gái trẻ là gì? Là những rạo rực mơ ước cũng cháy bỏng nhưng là cái cháy bỏng của giá băng. Cuộc đời phất phới lung lay vui mừng, mời gọi. Một đóa hồng sẽ nở, rồi sẽ tàn. Tuổi trẻ cũng tàn theo. Kể cả cô gái trẻ nhất xinh đẹp nhất.
Bài hát còn nhiều câu tiếp theo trong đó có câu Cupid he rules us all, Thần Tình Yêu là người cai trị tất cả chúng ta. Nói thế thì cũng không sai. Chúng ta đều yêu thương và muốn được yêu thương. Bài hát này nhạc của Nino Rota. Lời của Eugene Wilder
Giữa những năm chiến tranh cái chết cận kề, tuổi trẻ miền Nam vẫn mắt mở tròn ngây thơ say sưa với tình yêu. Toàn là những Romeo cầm súng bước vào chiến tranh. Trái tim ngây thơ chỉ biết yêu thương chưa biết hận thù.
Tượng Romeo và Juliet trong Central Park. Họ mãi mãi hôn nhau giữa rừng cây, chim muông, và cả ông đi qua bà đi lại, giữa bốn mùa, và tình yêu của họ muôn đời bất diệt. Một mối tình xóa hận thù giữa hai giòng họ. Việt Nam cần có vạn vạn tình yêu như thế để xóa những cách ngăn của đôi miền, hai bờ chính trị, hai bờ đại dương.
Dọc theo Park Avenue có rất nhiều hàng bán tranh ảnh, đồ mỹ thuật lưu niệm. Những người bán tranh ảnh này có thể là nghệ sĩ tự bán tác phẩm của họ. Cũng có thể là một người bán hàng không biết gì về mỹ thuật, đi bán dạo thế thôi. Có lẽ họ hay bị rượt đuổi nên gian hàng nào cũng có một tấm bảng nhỏ bảo rằng đừng có quấy nhiễu nghệ sĩ.
Chạy vòng quanh tâm điểm của Central Park có ít ra là hai con đường, một con đường lớn ở mức cao hơn, đường tráng nhựa có vài chỗ có đèn xanh đỏ, có lối riêng cho người chạy xe đạp và chạy bộ (thể dục thể thao), và một lối nhỏ hơn, lối mòn hay pathway, ở dưới thấp hơn cho người đi dọc theo bờ hồ. Tôi không kể đường lớn của thành phố, chỉ nói về đường nhỏ bên trong công viên thôi. Có những con đường nhỏ xuyên ngang phía dưới con đường lớn để dẫn đến con đường mòn ven hồ. Ở những chỗ xuyên ngang ấy người ta làm thành những cây cầu (hay viaduct) hình dáng xinh xắn, mỗi cầu một vẻ độc đáo riêng. Dưới gầm cầu là nơi lý tưởng cho những nhạc sĩ biểu diễn dạo.
Trên đường đi về từ hướng Đông sang hướng Tây tôi thấy nhạc sĩ này đang chơi violin. Tôi thường cho rằng những người chơi violin thường là những người có của ăn của để. Nhạc violin dường như không thích hợp để trình diễn ở những nơi công cộng. Người ta chỉ nghĩ là nhạc này chỉ xuất hiện ở những nhà hát sang trọng, trong những buổi đại hòa tấu, nhạc giao hưởng, thính phòng. Có lần tôi thấy người ta trình diễn nhạc vĩ cầm ở một đám cưới đã hơi ngạc nhiên, tuy nhiên không ngạc nhiên nhiều lắm bởi vì cái nhà hàng này nhìn cũng giống như một cái nhà hát nho nhỏ với những bậc thang bằng đá cẩm thạch trắng thật đồ sộ. Kể cả ông nhạc sĩ này cũng có vẻ gì rất là, ahem, tiểu tư sản. Trông ông ta khá sạch sẽ đẹp trai. . .
Ông này thì tôi nhìn thấy khi ra khỏi viện bảo tàng. Đang đi nghe tiếng kèn đồng với bản nhạc rất hay làm tôi chú ý. Tôi nghe một lúc rồi biếu ông tiền. Ông vẫn tiếp tục thổi kèn nhưng hạ cái kèn xuống với dáng điệu cảm tạ. Thấy trong cái hộp đựng kèn của ông có khá nhiều bạc giấy một đô la. Đứng phía dưới vòm cầu nghe âm thanh dội vang, rền, hay lạ thường. Tiếng kèn đồng lẻ loi, khi không bị những âm thanh khác như dương cầm hay percussion che lấp, nghe rất hấp dẫn. Nó làm mình liên tưởng đến giọng hát của những người da đen trình diễn ở những quán rượu về đêm, mù mịt khói thuốc. Nó nức nở như những lời khóc than khản giọng. Tôi không biết bài hát ông đang trình diễn nhưng nó ngọt ngào quá giống như nhạc Việt Nam làm tôi có cảm tưởng như nếu tôi nghe lâu hơn ông sẽ tấu Hạ Trắng, hay Tôi Đưa Em Sang Sông.
Ông này thì chơi guitar. Tôi đang vội đi đến viện bảo tàng nên không dừng lại để nghe ông.
Những nhạc sĩ này là một trong những nét đặc thù đáng yêu của Central Park.
Người Việt Nam mình thích có làn da trắng, như sữa, như gốm sứ, như kem vanilla nên bảo vệ làn da, đánh phấn trắng, ra đường thì che mặt che tay. Người Mỹ và Âu châu, ở những nơi thiếu nắng thì lại rất yêu chuộng màu da nâu dòn. Họ sùng bái chuyện tắm nắng và ở Mỹ thì hơi bảo thủ hơn các nước châu Âu, tuy thế bạn có thể nhìn thấy ở nhiều nơi công cộng như bãi biển sân cỏ trong trường học, người ta phơi nắng có khi 100% nude. Cô gái phơi nắng ở một chỗ được nhiều người chiêm ngưỡng. Phía xa là Belvedere Castle một nơi cao nhất nhì trong công viên này. Đứng ở trên lâu đài này người ta có thể nhìn thấy bao quát công viên. Rất nhiều người đến thăm lâu đài này nhưng tôi chưa có dịp vào, lần sau nhất định sẽ thử.
Trên đường đi từ bên hướng Tây của công viên sang hướng Đông tôi đi ngang ngôi nhà Scottish cottage này. Tôi rất yêu thích dáng của những ngôi nhà đá như thế này và luống Uất Kim Hương nở rộ màu sắc rực rỡ càng hấp dẫn tôi hơn. Ngạc nhiên khi thấy một ngôi nhà đẹp như thế này được biến thành một nhà vệ sinh công cộng.
Buổi sáng, trời ấm áp và đẹp, người ta đẩy xe đưa em bé ra bờ hồ ngồi sưởi nắng ngắm hồ. Đây chỉ là một cái hồ nhỏ trong góc Tây của công viên. Tôi sẽ thám hiểm dần dần và nói về cái công viên này trong những bài kế tiếp. Dọc theo bờ Tây của hồ rất nhiều đôi tình nhân, đa số là những vị có tuổi họ đi bộ cho khỏe người. Bởi vì tôi đi ngày thứ Sáu nên đa số chỉ có những người không còn làm việc hay những bà mẹ ở nhà chăm con.
Đây có lẽ là một nhân viên của công viên, chèo thuyền đi quan sát nhặt nhạnh những thứ không nên có ở dưới hồ. Không có khiếu chụp ảnh, cũng không mang theo paranoma lense nên tôi chỉ làm được bằng ấy thôi tuy nhiên đây là một cảnh tượng rất đẹp mắt, chung quanh có những con vịt trời và ibis lượn lờ.
Tôi không biết buổi sáng như thế này (giờ của tôi New Jersey) bạn thường làm gì? Còn tôi thì từ khi thức giấc đến giờ tôi uống chưa xong ly cà phê nó đã nguội ngắt đắng ngòm, chạy từ báo mạng này sang báo mạng khác, đọc lam nham lỡ nhỡ. Có những bài hay nhưng dài đọc lướt qua, tự hứa sẽ đọc lại.
Tôi muốn kể bạn nghe chuyến đi thăm viện bảo tàng Metropolitan Museum of Art của tôi ngày hôm qua nhưng sợ làm bạn chán. Nói đúng ra tôi chỉ đi săn ảnh của mấy món đồ gốm cổ ở Hội An chứ cái viện bảo tàng này nó to lắm xem không hết. Với tôi chuyến đi này lạ vì tôi đi một mình, đó là một cuộc cách mạng cá nhân đấy nhé. Tôi mang giày sneaker, không trang điểm son phấn. Buổi sáng trời hơi lạnh mặc nhiều áo quá nên suốt buổi phải khệ nệ khuân cái áo khoác jean dày cộm nặng trĩu. Cái áo chừng một kí lô, cái máy ảnh, quyển sách Sea Dragons nói về cuộc khai quật đồ gốm dưới đáy biển gần cù lao Chàm, đem theo để đọc trong lúc chờ xe lửa hay subway, chỉ ngần ấy thứ mà sao nó nặng trĩu. Nhớ lại cái truyện ngắn của Tim O’Brien người lính ra trận phải mang biết bao thứ nặng nề đi trong cái nóng nung người.
Hôm qua trời rất đẹp, ấm áp, người ta cởi trần chạy dọc theo bờ hồ của cái hồ trong Central Park. Tôi bị cảm sổ mũi, ho, nhưng vẫn đi. Và dĩ nhiên là tôi thấy mệt. Tôi mệt mỏi như thế này đã năm sáu năm nay, hậu quả của ngồi lì ở bàn viết ít vận động.
Tôi lấy xe lửa từ trạm nhà tôi vào Penn Station ở Newark, New Jersey. Lấy một chuyến xe lửa nữa vào trạm Penn Station ở New York City. Hai chuyến xe lửa này tôi đi không phải trả tiền vì tôi là nhân viên. Ban đầu tôi dự định đi xe bus nhưng đổi ý đi xe điện ngầm vì nhanh hơn và dễ đi hơn. Vì mới đi lần đầu một mình bằng phương tiện chuyên chở công cộng tôi không biết nó sẽ ra sao nhưng tự nhủ mình sống ở xứ này đã mấy chục năm thì chuyện tìm lối đi không phải là nan giải.
Chuyến xe điện ngầm tốn 2 đồng 25 xu. Tôi chỉ hơi lớ ngớ là không biết đi uptown hay downtown tuy biết là mình phải đi chuyến xe điện ngầm C. Tôi hỏi người trực ở cái information booth, một cô Mỹ đen môi dày mồm vẩu, vừa xấu vừa hung dữ. Cô nói như nạt làm tôi nghĩ đến mấy bà mậu dịch quốc doanh ngày xưa. Cùng một tuyến đường có xe điện C và E, tôi hỏi một người đi xe điện họ bảo là phải để ý đừng lên xe E. Tôi biết trạm tôi muốn xuống nhưng trước khi tôi lên xe tôi vẫn hỏi hành khách có đúng tuyến C không. Vẻ lớ ngớ của tôi làm hai cậu bé tội nghiệp nên một cậu cố giải thích nhưng cậu nói lầm bầm vô nghĩa làm tôi có cảm tưởng cậu là một người không bình thường. Một cậu bé khác trạc hai mươi lăm giải thích cặn kẽ hơn. Tôi là người đi xe lửa lâu năm nên tôi có thể đọc bản đồ trên xe lửa. Tuy nhiên tôi cũng cám ơn cậu đã nhẩm đếm bao nhiêu trạm thì sẽ đến trạm tôi muốn xuống. Trước đó cậu hỏi tôi muốn đi đâu. Cảm tưởng, người New York rất friendly (thân thiện, dễ dãi) ngoại trừ cái cô Mỹ đen môi dày răng vẫu, có thể cô là người New Jersey. Dân New York, nhất là giới điện ảnh tivi, hễ có cái gì xấu đều đổ thừa của New Jersey.
Tôi xuống trạm đường 81 ở phía Tây của Central Park. Met (viện bảo tàng) ở bên hướng Đông. Để đến đó tôi phải cắt ngang Central Park và đi bộ chừng nửa mile. Một giờ tôi đi được ba mile. Thế thì nửa mile chỉ tốn mười phút thôi. Tuy nhiên tôi đi đã hơn 20 phút mà không thấy gì cả nên tôi biết là đã lạc hướng. Tôi hỏi một người đang dắt chó thì bà chỉ hướng tôi đi ngược lại. Tôi đi quá chỗ phải rẽ mà không nhận biết vì không có tên đường và tôi ỷ y đã không mang theo bản đồ của Central Park. Tôi đi bộ một lúc với bà dắt chó, bà bảo tôi tuy là viện bảo tàng này bắt người ta phải trả 20 đô là vào cửa, tuy nhiên đây là viện bảo tàng công cộng. Người ta có thể donate nhiều ít tùy ý. Người em trai của bà chỉ trả có hai mươi lăm xu thôi. Bà bảo tôi trả chừng năm đô la hay mười đô la là hợp lý rồi. Bà còn nói thêm nếu bà (là tôi) có nhiều tiền muốn đưa hai chục đô thì cũng tốt thôi. Tôi hỏi mình nói làm sao, nhỡ người ta từ chối đuổi mình ra thì bẽ mặt. Bà bảo cái trick là cứ đưa đúng số tiền mình muốn đưa. Và tôi làm đúng y như lời bà chỉ. Tôi cám ơn cái “tip” của
bà nhưng cũng hồi họp lắm. Hai người đứng trước mặt tôi là hai người ngoại quốc nói tiếng Anh có accent. Họ chỉ đưa hai đô la. Tôi chìa tờ năm đô la với vẻ mặt lạnh lùng vô cảm, không nói không rằng, không hỏi giá. Cô gái lặng lẽ thu tiền không hạch hỏi gì cả và phát cho tôi một cái pin gắn vào áo để biết là đã trả tiền.
Con đường đi xuyên Central Park rất đẹp. Và tôi hy vọng sẽ trở lại đây thường xuyên hơn để viếng công viên này và viết một blog hay một bài tạp ghi chỉ về công viên này thôi.
Ra khỏi Central Park là đến ngay Park Avenue, khúc đường 79. Nhộn nhịp rộn ràng, một vẻ đẹp rất New York, một trong những thành phố có mật độ dân số đông nhất thế giới. Dọc đường đến viện bảo tàng là những gian hàng bán tranh ảnh mỹ thuật, mỗi người mỗi vẻ. Quên nói là ở bên hướng Tây cũng có một viện bảo tàng, viện bảo tàng tự nhiên.
Từ sáng đến giờ tôi chưa ăn gì, và tự nhiên tôi rất thèm một miếng bánh croissant, có mùi bơ thơm ngậy, dọc đường đi tôi để ý tìm nhưng chỉ thấy các quầy hot dog. Tôi mua một ly trà, sỗ mũi làm tôi mất nước nên thấy khát. Ly trà nhỏ giá một đồng. Đáng lẽ là một đồng rưỡi nhưng cô bán hàng là người Á châu thấy tôi cũng Á châu nên lấy một đồng, tôi thì nghĩ cô không tìm ra bạc cắc để thối lại cho tôi.
Không có hàng croissant nhưng có hàng bán chuối nên tôi hỏi mua một quả chuối. Anh bán hàng bảo mua một quả thì năm mươi xu, mua một đồng thì ba quả. Tôi đưa anh một đồng mua một quả nhưng anh chỉ thối lại có hai mươi lăm xu vì anh lơ đãng nói chuyện với một người đồng hương. Tôi cũng lơ đãng bỏ đi nhưng chợt nhớ ra anh còn thiếu tôi hai mươi lăm xu. tôi đổi ý đưa luôn đồng xu và lấy thêm hai quả chuổi. Trước khi vào viện bảo tàng, tôi ngồi trên bậc thềm ăn hết ba quả chuối và uống hết ly trà. Nắng sáng thật rực rỡ và những chiếc xe bus chở đầy du khách lẫn học sinh đổ xuống trước viện bảo tàng. Người ta ăn mặc đủ kiểu, jean, boots, xềnh xoàng như tôi và rất đỏm dáng như các bà khác. Già trẻ lớn bé, đủ giai cấp, từng nhóm đông, cả gia đình, một cặp, và không ít những người đi một mình như tôi. Nhìn ngắm mọi người thật là thú vị.
Tôi lấy bản đồ của viện bảo tàng và định bụng chỉ xem gốm Việt Nam thôi và sẽ trở ra đi dạo Central Park. Có lẽ cơn cảm làm tôi đau nhức khắp người nhưng tôi vẫn cố và tôi thấy người mình đang lên cơn sốt. Và thú thật tôi nhớ Chàng, như con ngựa nhớ thằng nài của mình. Tôi quen lủi thủi đi theo, ai bảo đi đâu làm gì thì tôi làm theo. Được tự do một ngày tôi có cảm giác lười, chỉ muốn vào Central park, kiếm một băng ghế hay một tảng đá nằm dài dưới bóng mát nghe nhạc. Chợt nhớ một câu thơ của e. e. cummings. I carry your heart within my heart.
Sáng nay tôi thức dậy cổ họng đau nhói, có lẽ là đã bị cảm.
Hôm nay là 30 tháng Tư. Ngày mai là 1 tháng Năm. Tháng năm là May giống chữ may trong may mắn của tiếng Việt. May là tháng của mùa Xuân. Thời tiết rất đẹp. Ngày xưa tôi rất yêu câu hát. “Ngày ấy khi xuân ra đời một trời bình yên có lũ chim vui. Có lứa đôi, yêu nhau rồi một ngày tuổi mới đôi mươi. Nắm tay cùng nói vui, những câu em vui không rời vai. Rồi lả lơi hình dáng ai…” Đó là những câu trong một bài nhạc tiếng Anh mà bất thình lình tôi không nhớ ra chỉ nhớ là nó có liên hệ đến chữ May (tháng Năm).
Hôm nay tôi sẽ đi chơi New York một mình. Đây là chuyện hiếm có nhưng tôi thuyết phục chàng để tôi đi một mình vì tôi chỉ cần bảo là tôi đi viện Bảo tàng là chàng ngán ngẩm. Có ai không chán viện bảo tàng không? Tôi sẽ đi bằng xe lửa, xe bus, hay xe điện ngầm. Thua cả chị Yến vợ của nhà thơ Trần Hoài Thư chị dám lái xe vào New York chứ tôi thì sợ lắm. Sợ nhất là chờ vào đường hầm qua sông. Người ta chen lấn cứ đâm bổ vào mình. Chàng của tôi đi học ở New York mấy năm và dạn dĩ hơn nên cứ vào New York là chàng lái. Đi đâu chàng cũng dành lái xe cả. Tôi chỉ việc ngồi ngủ.
New York có một khẩu hiệu là “I love New York.” Du khách ở xa đến chơi khó mà không yêu thành phố này. Tôi chưa bao giờ có một cái nhìn trọn vẹn về nó dù tôi ở tiểu bang sát bên. Chỉ hơn nửa giờ lái xe là người ta có mặt ngay ở Manhattan, một trong những thành phố đẹp nhất, đông đảo nhất nhiều du khách nhất trên thế giới.
Tôi có một vài kỷ niệm nho nhỏ đáng yêu với New York. Ngày còn đi học cuối khóa, sau khi thi cử xong, chàng hay chở tôi vào thành phố này ăn mì. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy người Mỹ ngồi trong quán Trung hoa cầm đũa thật thiện nghệ. Tuy nhiên tôi thú thật là tôi chưa bao giờ được ăn thức ăn Việt ngon miệng ở phố Tàu ở New York hay San Francisco. Chỉ có món dim sum hay điểm sấm hay điểm tâm của họ là ngon. Lần ăn mì ở New York tôi chỉ nghĩ đến lần ăn mì vịt tiềm ở Philadelphia cùng một nhóm bạn gái người Việt.
Ở New York tôi cũng có một ngày rất vui, chàng đưa tôi đến trường của chàng đại học Columbia vào mua hè khoảng chừng tháng Tám, trời nóng. Trên bãi cỏ của trường các cô cậu sinh viên nằm tắm nắng đầy cả. Chàng chụp cho tôi những bức ảnh rất xinh xắn. Trong đó tôi vẫn còn nhớ có tấm ảnh chàng bảo tôi ôm cổ một cái đầu sư tử bằng đồng đã bị oxidize biến thành màu xanh. Màu xanh của đồng rỉ rất đẹp. Tôi đã chìa má cho tượng sư tử hôn, tóc tôi ngắn, tôi mặc một cái áo sát cánh màu xanh dương rất ăn ảnh. Một hình ảnh đẹp của những ngày nghèo khó và yêu nhau, vì chung quanh chẳng có ai khác để mà yêu. Nhiều năm sau chúng tôi có tiền nhiều hơn, không giàu hơn ai cả chỉ giàu hơn lúc mình còn nghèo, có nhiều người thân hơn, và chúng tôi trở nên xa lạ lạt lẽo với nhau hơn. Người ta có thể gần nhau trong gang tấc nhưng cảm thấy xa như cách cả một đại dương. Tôi đứng xếp hàng ở hàng cuối của tình thương, sau cha mẹ, anh em, con cái, may là không nuôi chó mèo chứ nếu không tôi cũng đứng phía sau chó mèo. Cánh tay tình yêu quá ngắn để có thể quàng lên vai nhau. Nhưng sợi dây trách nhiệm thì đủ dài để thắt cổ nhau. Úi, nói nhảm lạc đề, đang nói chuyện New York đáng yêu.
Mấy tuần trước tôi đòi đi xem triển lãm cổ vật Việt Nam ở Hội Á châu. Chàng chìu ý đưa đi. Ngang Central Park chúng tôi ngồi nghỉ ngơi và tôi có chụp vài tấm ảnh của người đến New York.
Ảnh này chẳng có gì để nói ngoại trừ họ có vẻ là dân châu Âu đến New York chơi.
Ảnh này thì phải đoán là người và chó ở gần đấy.
Ba cha con đang chờ đèn để băng qua đương. Chú bé ngồi trên xe có vẻ buồn chán thấy rõ.
Đây là những du khách lười đi bộ.
Xe bán hot dog, nước uống.
Cứt ngựa. Cảnh sát ở New York nhất là vòng quanh Central Park thường cỡi ngựa đi tuần. Và khi ngựa phóng uế thì nó nằm đấy cho ông đi qua bà đi lại nhìn thấy và ngửi. Phải đem lên đây kẻo bạn nghĩ là tôi khoe láo rằng thành phố này cái gì cũng tốt đẹp.
We altogether 12 people went in three cars, through Lincoln tunnel, turned right on 40th Street, turned left on 8th Avenue and went directly to West Central Park. At the corner of 64th Street we found enough space for three cars parking along the street. We spent a whole day wandering around the park. While people played and climbed those huge rocks, I found a tree shade and spread my cotton jacket on the ground and . . . slept. But I hardly was the only one. I found a lot of people lying around and some actually slept. It is cool, a little overcast, very comfortable for walking around. When we returned to our cars we found each car was given a ticket. We did not realize that we parked at the bus stop. The fine was 115 dollars. Ouch!
A few pictures. We went just around 1/3 of the park. Perhaps we will come back someday when we forget the pain of receiving the ticket.
This lampost is on West Central Park Avenue at the intersection 65 or 66th street along the wall of the building Ethic Culture.
Birds in the Central park are very bold, perhaps too familiar with humans. This little bird refused to fly away when I approached her. Horse carriage is one of the attractions. The drawback is we have to smell the dung. The middle picture is a glimpse of The Tavern on the Green. The policemen are talking to a foreigner, it seemed he complained about something. After that the policemen ran after a horse that came loosed. It is interesting because the horse followed the traffic rule. The street was one way so it would be even more horribly chaotic if the horse went against traffic.
The Frank’s cove. It looks very much Japanese
I walked around the ethic culture building and saw a few nice designs on a building next to the ethic culture building. Some wealthy people had such amazingly little flowers in a trough. I have the whole grove behind my house. Bragging The birds said best place to rest. Water lillies came in two colors, purple and pink.
814850fa10338205220042/q159509786.jpg” alt=”147″ height=”120″> The two break dancers in a performance. Lanscape in the central park. There are many performers in the park. This young fellow is an amazing drummer. The first time I have ever seen a black squirrel. I spotted this couple. At a glance I had thought that she was topless because her shirt was pale pink almost like naked skin.
9718/photo.html” target=”_blank” rel=”noopener”> I was not the only one who napped on the lawn. This lady was one too. The make shift house of a homeless person. The plastic sheet is large enough to cover a bench and also has a canopy.
You must be logged in to post a comment.