Ngày thứ nhất tiếp theo

Nói chưa hết chuyện nàng chủ nhà vui tính và khó tính nên lôi ra kể tiếp. Nàng nắm cổ tôi và ông Tám để nói chuyện cả tiếng đồng hồ. Hai chúng tôi lễ phép đứng nghe. Nhờ nghe nàng nói mà được khen là nàng rất vui được nói chuyện với những người có học. Trong câu chuyện dông dài từ thị trường nhà cửa đến đời sống các nước nàng đã du lịch (nàng chưa đi Á châu), thỉnh thoảng nàng chêm vào vài câu về cách ở trong bed and breakfast của nàng. Nàng than phiền tụi trẻ vào ở không ngăn nắp gọn gàng. Sau đó lại đưa lên facebook than phiền chê bai đủ thứ. “Không thích thì đừng trở lại tại sao lại mang lên mạng mà kể xấu người ta.” Nàng kể chuyện thằng cháu nào đó một ngày tắm hai lần, kết luận “thật ra người ta không cần phải tắm mỗi ngày như vậy. Chỉ có một vài chỗ cần rửa ráy thôi.” Tôi và ông Tám mỗi sáng thức giấc cũng cẩn thận xếp chăn cho ngay ngắn vén khéo. Còn những cái gối trang trí sang trọng thì mình để sang một bên không đụng đến chúng. Nói chơi cho vui, nhưng nếu ai hỏi thì tôi cũng sẽ giới thiệu chỗ ở này, vì nó rẻ bằng nửa giá của khách sạn. Đây là chỗ dành cho người ban ngày đi chơi, tối về ngủ.

Chợ Byward, phân tích ra thì chữ ward có nghĩa là một khu phố, tương tự như chữ quarter trong chữ Latin Quarter của Paris, xóm hay phố La Tinh, mà chúng tôi đám trẻ con Việt Nam khi mới lớn lên nghe trong bài hát, “hỡi em ‘người xóm học’ sương trắng hè phố đêm.” Còn chữ By là họ của một người đã góp phần tạo dựng thành phố Ottawa từ những ngày mới bắt đầu. Tên của ông là John By.

Trong những cuộc đi chơi, tôi cũng có tìm hiểu chút đỉnh về nơi tôi sắp đến, tuy nhiên bản tính lười và có nhiều thứ chi phối nên tôi không tìm hiểu nhiều. Vả lại không tìm hiểu nghiên cứu trước cũng có cái hay là nó làm mình ngạc nhiên. Tôi cốt ý muốn xem vườn thiền nên không chú ý đến mọi thứ khác, nên Byward market làm tôi ngạc nhiên và thú vị.

Vòng quanh chợ, thấy có nhiều nhà hàng của người Irish. Ngày đầu tiên tôi đến trời khá nóng, người ta đặt bàn và dù bên ngoài nhà hàng, màu sắc rất thu hút, nhiều màu đỏ, màu xanh lá cây. Nhạc sĩ trình diễn trên phố vào buổi tối đã thấy đi lang thang với kèn, đàn, hay trống. Đồ thủ công mỹ nghệ cũng được bán trên hè phố rất nhiều, tơ lụa đầy màu sắc. Đa số người ta dọn hàng khi tắt nắng, có vài cửa hàng mở trễ đến tám chín giờ tối mới thu dọn.

Tôi thấy có một nhà hàng Thái, một nhà hàng Tàu, một vài cửa tiệm bán sushi, hai nhà hàng Việt, nhiều nhà hàng Irish, tiệm café. Rất ít nhà hàng Ý, hay nhà hàng Mỹ. Đi đâu cũng thấy Tim Horton nên tôi và ông Tám vào thử, mới biết nó tương tự như McDonald. Tôi gọi một cái bánh parini thịt bò giống như hamburger nhưng gói trong tấm wrap (bánh mì mỏng như bánh tráng và mềm). Ăn khá ngon. Dù tôi không đụng đến khoai tây chiên (cắt dày và to hơn khoai tây chiên của McDonald) mà tôi no suốt buổi tối.

Beavertails là một cửa tiệm bán bánh, nổi tiếng lâu đủ để được vào sách du lịch của Frommer và có một bài trên Wikipedia. Bánh chiên thì có lẽ cũng na ná như donuts. Tôi đi ngang thấy tiệm lúc nào cũng đông khách, trang trí đẹp, nằm ngay cái góc dễ thấy nên du khách thường bấm một vài tấm ảnh về làm kỷ niệm. Mấy cái tiệm bán fastfood ngó sang một department store có tên là Rideau Centre, nhìn lên mấy cái hành lang trên cao bắt ngang đường phố để giúp người dạo tiệm không phải băng ngang đường. Trên đó nam thanh nữ tú rất nhiều. Điểm đặc biệt ở Ottawa tôi nhận thấy là số người Á châu rất đông. Chiều hôm ấy tôi thấy các cô cậu ăn mặc như tài tử Hàn quốc, rất bắt mắt. Số người lang thang, lôi thôi đi phố nào cũng có  cũng gặp. Tuy họ chẳng xin xỏ nhưng thỉnh thoảng cũng có vài hành động cử chỉ làm mình e dè.

 

Ottawa ngày thứ nhất

Tôi chỉ có nửa giờ để blog vì phải đi rừng vì thế chưng ảnh trước, kể chuyện sau. Phải hứa trước để tôi cố giữ lời hứa mà thực hiện.

trang-tri-trong-vuon
Những thứ trang trí trong sân. Có một vạt rau vấp cá chủ nhân trồng thay thế loại cỏ trồng để che lấp đất trống. Bà này không biết, vấp cả sẽ lấn át tất cả các loại cỏ khác trong vườn.
hai-cai-nam-to
Bên hông nhà có cây bị cưa, trên cây mọc hai cái nấm thật to
dong-ho-co
Đồng hồ cũ xưa trong nhà
can-nha-toi-o-tro
Mặt trước của bed and breakfast
goc-trong-vuon-nha-tro
Trên ghế có cái găng tay bằng sứ để trang trí

Tôi đến Ottawa vào chiều thứ Bảy, sáng thứ Ba về. Đây là căn nhà tôi ở trọ cách thành phố chừng năm hay sáu miles (dặm). Giá rẻ bằng phân nửa giá khách sạn ở ngay trong thành phố. Cả bên ngoài và bên trong đều rất tươm tất, sạch sẽ. Bạn quen đi chơi ở nước ngoài ai cũng biết những chỗ cho ở trọ vài ngày gọi là “bed and breakfast” cho người đi chơi cần chỗ ngả lưng, ăn sáng không đòi hỏi phục vụ sang trọng như khách sạn và đỡ tạp nhạp hơn motel.

Chủ nhân là một phụ nữ người da trắng, nói tiếng Anh rất dễ nghe vì giống như tiếng Anh của người Mỹ. Trông nàng rất trẻ, người rất slim (thon thả nhưng không yếu đuối), rất khỏe, tóc bạch kim. Tôi đoán chắc là nàng phải sáu mươi hay hơn, nhưng chỉ nhìn thoáng qua trông như mới năm mươi. Khóe môi có đường nứt nẻ, khóe mắt đầy dấu chân chim, nhưng da căng, mặt sáng, không trang điểm mà vẫn đẹp.

Có lẽ nàng một mình trông coi sự nghiệp nên khi nói chuyện hay thêm vào những câu ám chỉ là mình có người đàn ông cộng sự cộng tác. Làm như thế để phòng thủ kẻo người lạ biết nàng chỉ có một thân một mình dễ sinh chuyện lôi thôi. Nàng thích nói chuyện và là người rất thông minh, hiểu biết chuyện chính trị thời sự của cả thế giới chứ không riêng gì Canada hay Mỹ. Nàng nói chuyện với chúng tôi cả giờ đồng hồ. Thật ra chỉ có nàng nói (không dứt) còn tôi và ông Tám đứng nghe. Tôi thầm nghĩ đàn bà mà sao nói nhiều quá. Cũng may là những điều nàng nói nghe thú vị, chứ tôi sợ những người nói nhiều mà nói những điều tôi không thích nghe.

Nàng cho biết những luật lệ của nàng, căn nhà có bốn phòng rộng cho thuê. Mỗi phòng rất to, rất thoải mái. Áp suất nước rất cao, phòng tắm rất rộng, rộng hơn những khách sạn tôi đã từng ở trước đây. Tuy nhiên luật của nàng rất gắt gao, làm tôi có cảm tưởng như đang ở nhà của má chồng. Đi rón rén, không tắm sớm, không tắm khuya, không tắm hai lần. Trong phòng tắm không có giấy lau tay. Cái bất tiện là phòng tắm dùng chung cho người thuê phòng. Khăn tắm khăn mặt của nàng màu đen, cứng ngắt có lẽ vì không dùng máy sấy hay (tôi có cảm tưởng) cho nhiều thuốc giặt mà không giặt sạch.

Những người khách ở cùng thời gian với tôi đa số là những cặp vợ chồng già (cỡ tuổi của tôi và ông Tám). Có một đôi vợ chồng người Hàn đi vòng quanh thế giới để viết sách. Thật là đáng ngưỡng mộ ông chồng đã chìu vợ đưa vợ đi khắp nơi như vậy. Có lẽ ông cũng thích du hành. Rất tiếc là bà viết blog bằng tiếng Hàn chứ không viết tiếng Anh.

Đi chơi mới về

cho-nora-di-theo-voi
Nora đòi đi theo, leo vào túi hành lý ngồi chờ
cho-ngu-moi
Nora vào ngồi trong rổ quần áo, chỗ ngủ mới của nàng
con-meo-trang-den-xo-xac
Boyfriend được cho ăn trước khi ông bà đi chơi
ban-do-va-hai-chu-nj
Ngừng ở một trạm nghỉ chân, biên giới NJ và PA thấy trên sân cỏ có hình bản đồ NJ
hoa-hong-nuoc
Hoa pond waterlily ở hồ Surprise
hai-dang-thu-nho
ảnh hải đăng thu nhỏ ở một trạm dừng chân gần khu 1000 islands
canh-dong-hoa-vang
Một vạt ruộng cây golden rods mọc hoang
nhin-may-tu-cua-so
Nhìn mây trôi từ cửa sổ
golden-rod
Golden rods chụp gần ở trước sân Nature Center

Bạn có tin vào tử vi không. Đôi khi tôi muốn tin vào tử vi, nhưng chỉ muốn tin vào những chuyện tốt. Thí dụ như tử vi của tôi cung Thiên Di có thanh long thiên mã (nhưng gặp Triệt). Người ta bảo đó là tử vi của ngựa chạy đường cùng. Những năm còn niên thiếu tôi chẳng mấy khi được đi chơi xa, cũng chẳng thấy thèm đi. Đến chừng đi thì đi ra khỏi nước, trong tình trạng nguy hiểm tưởng chết. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến Thiên Mã gặp Triệt. Trong vòng mười năm sắp đến tử vi của tôi ứng vào cung Thiên Di. Chẳng biết có đúng hay không nhưng bỗng dưng tôi có cơ hội, gặp dịp đi nhiều nơi, gần gần thôi.

Bắt đầu là chuyến đi Houston, dự lễ 100 ngày anh chồng qua đời. Tiếp theo là lại đi Houston gặp bạn, rủ nhau đi Austin. Đi chơi Toronto. Đưa nhỏ út đi học ở Illinois. Đi Ottawa. Đi Houston dự kỷ niệm một năm anh chồng qua đời. Còn một chuyến đi nữa vào tháng 10, nhưng chưa đi không thể tính trước.

Mỗi lần nói chuyện đi chơi, trong gia đình nhiều người cứ nghĩ tôi là người chẳng thích đi. Ông Tám cứ mỗi lần nói chuyện đi là lên giọng gắt gỏng tôi. (Lúc sau này chẳng hiểu tại sao, có lẽ tôi trở nên lẩm cẩm lú lẩn sao đó mà tôi bị nạt nộ bị gắt gỏng từ trong nhà đến ngoài đường. Riết rồi tôi muốn tránh xa những người hay gắt tôi.) Thật ra tôi thường mơ mộng những chuyến đi đến những phương trời xa lạ.

Nhưng đi để làm gì? Có bao giờ bạn tự hỏi lý do của những chuyến đi chơi xa của bạn. Có người đi hiking hằng ngàn dặm để tìm chính mình (và viết thành quyển sách) như Cheryl Strayed. Ở Hoa Kỳ đã có hằng ngàn quyển sách về du hành ký. Họ đi tìm gì? Đi để lấy tư liệu viết văn? Để chinh phục đường dài, núi cao. Để là người giàu có và hiểu biết vì đi hết thành phố lớn này đến thành phố khác?

Ở Houston, tôi gặp một người quen ở VN mới sang. Bà này kêu lên, ở đây dễ quá, sướng quá, cứ thích đi chơi là đi chơi. Chứ ở VN muốn đi chơi phải để dành tiền lâu lắm. Tôi không dám trả lời. Thật ra ở đây muốn đi chơi phải hội đủ một vài điều kiện, có tiền, có sức khỏe, có thì giờ, và nếu muốn vòng quanh nước Mỹ bằng xe hơi thì phải hiểu biết luật giao thông, biết lái xe, và ít ra phải biết sử dụng tiếng Anh trôi chảy. Nghĩ ra chẳng dễ chút nào.

Với tôi mỗi lần đi chơi phải tìm người trông nuôi hai con mèo. Cô nàng Tiểu Thư có thể để ở trong nhà ba bốn ngày, để nhiều thức ăn nước uống. Để cửa sổ cho nàng có thể nhảy ra nhảy vào. Còn chàng Lãng Tử thì tội nghiệp hơn. Để thức ăn nhiều thì mấy con ground hogs, opossum, ngay cả chim blue jays nữa, sẽ ăn hết. Trước khi đi tôi khui một hộp cá chia làm hai cho hai con mèo. Tiểu Thư liếm láp chút xíu rồi bỏ đi, phần của nàng tôi mang luôn cho Lãng Tử, chàng ăn ngấu nghiến chỉ một loáng là chấm dứt. Những lần đi ngắn ngày không ai trông hai con mèo, trở về tôi vẫn ngóng tìm Lãng Tử. Nó mất biệt mấy ngày tôi nghĩ là chắc nó bỏ đi luôn không về nữa. Tôi thấy nhẹ nhõm, chắc hết nợ con mèo này. Vắng Lãng Tử, Tiểu Thư mon men ra ngoài sân chơi nhiều hơn. Tuy nhiên, có một chiều chàng mèo hoang trở lại, nằm chờ ăn. Tôi bỗng thấy vui mừng, như gặp lại người quen. Thấy trên cổ nó có một con bọ ký sinh to lớn vì hút máu nó. Tội nghiệp nhưng chẳng giúp được gì. Thấy lòng mình bỗng giống như hai câu thơ của Nguyễn Tất Nhiên:

Quên người nhất đinh ta quên,
Nhưng sao gặp lại còn kiên nhẫn chào.

Nước Mỹ có nhiều trạm dừng chân cho người lái xe đường trường nghỉ ngơi rất đẹp. Làm một chuyến du hành vòng quanh nước Mỹ người ta có nhiều chuyện để kể về các trạm dừng chân này. Dừng chân đổ xăng ở Pennsylvania tôi thấy một cánh ruộng đầy hoa golden rods. Hoa này thơm và có mật ngọt nên loài ong rất thích.

Hôm trước khi đi Houston, tôi và ông Tám đi hiking cho khỏe người, thấy một đóa hoa mọc gần bờ. Hoa súng màu vàng, có lần tôi gọi nó là thủy cúc, nghe cho có vẻ lãng mạn, vì nhớ câu ca dao

Cúc mọc dưới sông gọi là cúc thủy,
chợ Sài gòn xa chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.

Thật ra hoa này trông giống hoa hồng vàng, hơn là hoa cúc. Có lẽ nên gọi nó là hoàng thủy hồng. 🙂

Trên đường đi từ Canada trở lại Mỹ tôi thấy một cái bảng chỉ lối vào một nơi có tên là 1000 islands. Cái bảng rất đặc biệt màu xanh nhưng chữ vàng kim chứ không trắng như những bảng chỉ lối trên đường cao tốc. Trạm dừng chân sau đó có cái tượng đài hải đăng thu nhỏ, có giới thiệu địa danh 1000 islands. Chỗ này của dân nhà giàu của cả hai nước Canada và Hoa Kỳ ở. Vùng này bao gồm gần 1500 đảo. Để được gọi là đảo phải hội đủ vài điều kiện là có ít nhất hai cây to, phải nổi lên trên mặt nước vài mét, và một vài qui định khác. Có đảo chỉ có một nhà, và lại bị bỏ hoang. Hôm nọ thấy trên trang người ta đăng ảnh một căn nhà trên đảo thuộc quần đảo 1000 này tôi đã ao ước được ra đó ở một thời gian để … viết văn.

Chuyến đi Houston trở về tôi được ngồi gần cửa sổ. Trời trong nắng vàng, nhìn xuống thấy mây trôi từng cụm. Lần này nhìn mây thấy lạ vì những đám mây nhỏ này dường như cùng nằm trên một mặt phẳng, như những cụm lục bình trôi trên sông. Thỉnh thoảng có một đám hơi nước, chưa đủ dày để thành mây, gió thổi lướt qua, nhìn thấy dáng mờ mờ như một bóng ma. Cả thế giới bơi lội trong không khí, một môi trường chúng ta biết hiện diện nhưng không nhìn thấy. Ra khỏi bầu khí quyển, tất cả những hành tinh vệ tinh trong vũ trụ có lẽ cũng bơi lội trong một môi trường khác nữa mà chúng ta chưa biết rõ. Dưới đám mây kia tôi thấy núi đồi, sông, thành phố. Vào gần thành phố thấy những khu nhà, bãi đậu xe tạo thành những hoa văn lạ mắt. Nếu có người của hành tinh khác, chắc với họ thật là một cảnh tượng quyến rũ lạ lùng.

Con nhện Maman ở Ottawa

img_0289
Con nhện tên Maman – Mẹ tôi

Tượng con nhện Maman ở phía trước viện bảo tàng Mỹ thuật Quốc Gia Canada ở Ottawa. Tác giả là Louise Bourgeois. Tượng có kích thước 9271 x 8915 x 10236 mm. Được cấu tạo năm 1999, làm bằng đồng, thép không gỉ sét, và đá cẩm thạch trắng.

boc-trung
Bọc trứng nhện bao gồm 26 cái trứng

Nhìn gần thấy chân nhện làm bằng đồng sơn đen, lưới của cái bọc trứng nhện làm bằng thép không gỉ (stainless steel), và trứng nhện bằng đá cẩm thạch trắng.

Tác giả Louise Bourgeois bị mất mẹ năm 21 tuổi. Bức tượng điêu khắc này dùng để vinh danh mẹ của bà vì vậy lấy tên là Mẹ Tôi. Ngày còn sống, Josephine, mẹ của Louise, làm nghề sửa chữa những tấm thảm lớn (tapestries) trong xưởng bảo tồn những thứ đồ dệt của bố Louise, Ở Paris. Ngày mẹ qua đời, Louise nhảy xuống sông Bièvre tự tử, nhưng được bố cứu thóat. Bà nhìn thấy con nhện có những đức tính và năng khiếu của mẹ bà, như dệt tơ, khéo léo, khôn ngoan, và bảo vệ người thân.

Đây là một trong sáu con nhện được làm cùng một mẫu. Con nhện này lớn hàng thứ nhì còn những con kia ở khắp nơi trên thế giới như Anh, Tây Ban Nha, Nhật, Korea, và Arkansas (Hoa Kỳ). Ngoài ra Louise Bourgeois còn thiết kế tượng của ba con nhện nhỏ hơn, có tên là Spider, một được trưng bày ở viện bảo tàng nghệ thuật quốc gia Hoa Kỳ ở Washington D.C., Viện Nghệ Thuật Denver, và Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Đương Đại Kemper ở Kansas City (Missouri).

Con nhện Maman được viện bảo tàng Canada mua với giá 3.2 triệu Mỹ kim, bị cho là quá đắt vào năm 2005, chiếm hết một phần ba ngân sách hằng năm của viện bảo tàng.

Chuyện nhỏ ở thác Niagara

Hôm qua vội chuẩn bị đi làm tôi nghĩ tối về sẽ viết thêm về thác Niagara, nhưng về nhà xem lại thì thấy tự ảnh đã nói hết rồi còn thêm bớt gì. Để kể chuyện đi chơi tôi có thể kể lể đầu cua tai nheo, nhưng sợ chẳng ai đọc, thứ nhất người đọc chẳng có thì giờ, thứ nhì chuyện chẳng có gì hấp dẫn.

Có một vài chi tiết tôi muốn chia sẻ với các bạn vì chuyện vui vui.

một góc của horseshoe bowl

Thác hùng vĩ lắm. Bạn biết rồi. Đứng bên bờ Hoa Kỳ bạn sẽ không nhìn thấy hết sự hùng vĩ này. Đã có một thời người Hoa Kỳ khai thác thương mại thác không đúng hướng nên thác mất đẹp, lôi thôi nhếch nhác, loạn xị. Hoa Kỳ bị du khách thế giới, đặc biệt là châu Âu chê cười dữ dội nên có sửa chữa. Canada khai thác du lịch ở thác Niagara rất tận tình. Cái gì cũng đắt giá kinh hồn.

khi thác Niagara bên bờ Hoa Kỳ ngừng chảy

Năm 1969, người Mỹ xây cofferdam (chẳng biết chữ này dịch là gì, nó là một cái đập làm bằng thép) chặn dòng thác chảy để khám xét thác và nghiên cứu sự soi mòn của thác. Cái đập này làm dòng thác phía Hoa Kỳ ngưng chảy, trở nên khô cạn. Sau bảy năm, họ rút đập ngăn để thác chảy tự do, và soi mòn tự do. Có lẽ cái gì đi ngược hướng với thiên nhiên cũng gây ra tác hại của nó.

Từ bờ Canada, bạn sẽ nhìn thấy có một vùng thác chảy xuống, miệng thác hình móng ngựa vì thế được gọi là horseshoe bowl. Người ta tổ chức chuyến đi khám phá lòng thác từ phía sau dòng thác, đặt tên chuyến đi là Journey Behind The Falls. Chúng tôi đến mua vé lúc mười hai giờ. Người ta bảo chờ đến một giờ ba mươi mới được vào xem. Giá mỗi người đi xem là 30 đô la Canada. Mỗi người được phát cho một cái áo mưa poncho, loại mỏng dùng một lần thôi. Có thể để dành dùng lại, nhưng tôi cắt lủng lỗ để chừa camera ra tiện việc chụp ảnh. Sắp hàng chừng mấy trăm người, lần lượt đi thang máy xuống dưới lòng thác.

đi luồn phía sau thác

Chúng tôi được căn dặn là đi đến về phía trước, chờ xem, coi chừng trượt té, vân vân. Tôi đi theo người phía trước, tản mác, chỉ nhìn thấy cửa động với một màn nước trắng xóa như thế này. Tôi ngỡ ngàng, chỉ có thế này thôi mà tôi phải trả ba chục đồng. Rip off. Tôi quay qua nói với một người ngoại quốc da trắng. Chỉ có thế này thôi à. Ông ta nói. “Thieves.” Quả là nói oan. Nhưng người ta bóc lột tiền của người đi xem quá độ. Ông nói tiếp. “Nhưng chúng ta cứ đâm sầm vào đổ tiền vào túi của họ, vì thế đó là lỗi của chúng ta, sự ngu ngốc của chúng ta.”

ở phía sau thác

Sự ngỡ ngàng này thật ra bắt đầu từ sự hiểu lầm. Chúng tôi muốn đi lên chiếc tàu chạy trên dòng sông, ngược chiều đến gần thác. Khi nghe đi lên tàu, tôi từ chối không muốn đi. Chồng hỏi tại sao, tôi nói sợ. Chồng nạt, gắt gỏng, “làm gì mà sợ. Đã đến đây rồi mà lại không đi.” Ơ hay, sao người ta lại có quyền bắt mình phải đi phải làm những chuyện mình không thích. Tôi ghét chồng lúc ấy muốn nạt lại nhưng cãi nhau sẽ mất vui của mọi người, và tôi đã rất mệt. Tôi có bệnh tâm lý là tôi rất sợ chỗ đông người. Sợ đi tàu đi ghe (vì vượt biên), sợ những gì bất trắc, sợ đi xe (sợ tai nạn và sợ hư xe), sợ đi xa (dù muốn đi chơi). Bệnh này không rõ rệt lắm nên ít người biết, nhưng nó vẫn hiện diện trong tôi. Và tôi biết rất rõ bệnh của tôi.

Không bị đi tàu, giữa đám đông bát nháo trên tàu tôi thở phào nhẹ nhõm. Té ra chúng tôi chọn chuyến đi lòng vòng trong đường hầm chỉ để xem cái cửa động nhìn ra thác, một màn nước trắng xóa và đám rong bám lơ phơ trên cửa động.

Đi ngược trở ra tôi thấy một con đường khác dẫn ra cửa động khác. Nơi đây là một khoảng sân rộng rãi, có hàng rào. Du khách nhìn thấy bảng hiệu của chuyến đi phía sau thác.

dưới lòng thác nhìn lên miệng thác thấy vách núi dựng đứng

Từ chỗ đứng tôi nhìn thấy vách núi dựng đứng. Chúng tôi đang đứng ở dưới lòng thác nhìn lên.

nhìn thác hùng vĩ

Nước chảy xuống từ miệng horsehoe bowl. Mạnh mẽ. Hùng vĩ. Tiếng nước chảy ầm ầm át cả tiếng nói của đám đông. Tôi bỗng nhớ một câu thơ của Lý Bạch trong bài Tương Tiến Tửu. “Quân bất kiến. Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai…” Chẳng biết sông Hoàng hà có khúc nào chảy mạnh như thác Niagara không, như nước từ trời rơi xuống sầm sập tung tóe thế này.

Tôi cố chụp cả miệng chén hình móng ngựa nhưng không được vì ánh sáng không đều và tôi không biết cách chụp.

Trong đường hầm có nhiều tấm áp phích giảng giải thêm về lịch sử của thác. nước đổ sầm sập xuống

Và đây là bóng của loại hoa dại màu tím loosetride in lên nền thác.

Ripley’s Aquarium of Canada

cá râu rồng

cá quên tên

Cá chỉ vàng

cái gì đây

chu kỳ phát triển của sứa

anemone

giống như con mực biển

lại râu rồng

người ta ngắm những bong bóng màu của biển

dưới đáy biển

sea urchin

Ripley's aquarium

rong biển

san hô

sứa 2

như cái nấm của biển

cá trình giảo kim

trang trí

sứa 3

như những viên ngọc trai

sứa

tranh trừu tượng

ngồi dưới đất tưởng tượng mình ngó lên trời

cá mập

Chuyến đi này, chúng tôi đi chung với gia đình người em của ông Tám. Người lớn bảo các cháu tự chọn những chỗ muốn đi xem. Ripley’s Aquarium là một trong những chỗ các cô cậu chọn. Hai đứa cháu của tôi vốn dễ tính và ngoan nên chọn lựa đều bị cô út nhà tôi ảnh hưởng. Con bé nhà tôi đi đâu cũng chỉ xem viện bảo tàng thiên nhiên và aquarium. Cái aquarium này chắc là cái thứ tư thứ năm gì đó. Vả lại khi bị bắt chọn những thứ để đi xem hầu hết chúng ta đều lúng túng khi có quá nhiều thứ để chọn lựa, và khó mà biết ý muốn của tất cả mọi người.

Aquarium dịch là gì nhỉ? Đơn giản, nó là cái bồn cá. Nhưng cái bồn cá này nó to quá thì phải có chữ gì to lớn để chỉ nó chứ. Viện hải dương học, hay Trung tâm thủy sinh vật. Có nhiều loại cá quá không thể nhớ tên nổi. Tôi nghĩ đến hai phim họat hình, The Little Mermaid và Finding Nemo, với những rặng san hô nhiều màu dưới đáy biển, và những đàn cá có hình dáng quen thuộc. Cái sai lầm của tôi là không dùng điện thoại để chụp ảnh, mà dùng cái Canon lúc trước hay dùng. Tôi lôi cái Nikon con tôi cho làm quà Giáng sinh ra săm soi nhưng không đủ tự tin để dùng mà mang theo nhiều thì nặng. Samsung 6 có cái giới hạn của nó nhưng snapshot trong bóng tối thì nó hữu hiệu hơn Canon Powershot S5.

Một trong những điểm thú vị của viện thủy sinh này là khán giả đứng lên một vòng quay chậm, nó sẽ đưa khán giả đi xem cá mập và nhiều loại cá khác được nuôi trong những cái bồn khổng lồ. Khán giả nhìn lên đầu, nhìn chung quanh toàn là nước và cá và san hô và rong biển. Ai cao lớn có thể với tay lên đầu chạm vào tường kính tưởng chừng có thể sờ được những con cá mập hung dữ. Cá đuối, và con sam được để trên mặt cát có nước biển và trẻ em với người lớn được khuyến khích sờ vào những con vật biển này, nhẹ nhàng thôi nhé.

Tôi xem mấy con sứa khá lâu. Chúng bay lượn, trồi lên ngụp xuống nhẹ nhàng, phiêu diêu, khi thì như những cái bong bóng màu, khi thì như những cái nấm có đuôi biết bay. Làm mình thấy thư giản bớt căng thẳng. Có một đàn cá, tôi biết tên, nghĩ là mình sẽ nhớ tên nhưng bây giờ thì lại quên mất, trông nó giống như cá chim, có sọc, khá to, có lẽ cỡ hai bàn tay của đàn ông Mỹ để cạnh nhau. Chúng bơi nhẹ nhàng thành từng đàn đến hết chiều dài của hồ, quanh lại bơi về hướng kia, dường như nhìn ngắm loài người đang đứng quanh hồ.  Tôi thấy mấy con vật biển mang tên anemone vì chúng giống như loài hoa anemone.

Tôi nghĩ đến cá chết ở Việt Nam, đến những rặng san hô đã bị chết, đến những hủy hoại môi trường và sinh linh vì sự tham lam táng tận lương tâm của một số người nắm vai trò lãnh đạo. Lãnh đạo như thế này là đưa người dưới quyền lãnh đạo của họ, nôm na là dân quèn, vào chỗ chết. Ở đâu cũng có những người lãnh đạo đâm sau lưng và đâm trước mặt những người dân người lính của họ.

Sau khi đi khá mỏi, tôi hết muốn đi, ngồi trong một góc của viện thủy sinh. Bóng tối, có nhạc nhẹ nên người mỏi mệt dễ buồn ngủ. Tôi thấy một phụ nữ Á châu, trẻ đẹp, chừng hơn bốn mươi, xách rất nhiều giỏ quà chắc mua sắm ở  các tiệm đắt tiền trên Canada. Nàng ngủ gục bên những giỏ quà quí giá. Ngủ say quá đến há hốc cả mồm ra. Tôi nghĩ thầm giá mà chụp ảnh nàng đưa lên facebook nhỉ, có biết ai chụp đâu mà kiện cáo, và mình cũng chẳng nói gì làm nàng thẹn thùng, chỉ nói nàng ngủ quá say thôi. Chập sau thấy chồng nàng đến đánh thức nàng. Hai người nói tiếng Việt với nhau.

Lâu đài Casa Loma

ban công
Enter a caption

cửa trước
Enter a caption

góc nhỏ bên hông lâu đài
Enter a caption

lâu đài nhìn từ công viên phía  sau
Enter a caption

bưc điêu khăc ở sân sau
Enter a caption

fountain
Enter a caption

những ống pipe của đàn organ
Enter a caption

phim quay ở Casa Loma Castle
Enter a caption

nóc trần phòng nuôi trồng hoa kiểng
Enter a caption

đàn organ
Enter a caption

một góc phía trước của lâu đài
Enter a caption

hầm rượu
Enter a caption

câú trúc điêu khăcs ở sân sau được dùng để chưng hoa hay làm khán đài
Enter a caption

fountain phía sau nhìn thấy CN Tower
Enter a caption

cầu thang và cửa bí mật trong lâu đài
Enter a caption

nhà chứa xe
Enter a caption

đường hầm nối liền các tòa nhà
Enter a caption

Tiểu sử của chủ nhân lâu đài
Enter a caption

đường dẫn ra vườn hoa
Enter a caption

Rất tiếc là tôi không chụp được tấm ảnh nào thấy nguyên vẹn lâu đài. Vì lâu đài quá lớn, và không có khoảng sân rộng đủ để có thể chụp từ xa. Tôi chỉ có thể chụp từng góc nhỏ ở bên ngoài.

Bên trong cũng rất đẹp, nhưng hơi tối, và đông người quá làm tôi phát mệt. Xe buýt ngừng lại cho xuống xe toàn người du lịch nói tiếng Trung quốc. Ba chiếc xe buýt khổng lồ đầy người. Chưa kể du khách ở Mỹ, Pháp, Anh v.v. . . cũng rất nhiều.

Tôi đã đi xem lâu đài này đâu như từ năm 2004, nhưng cô nhỏ đòi xem lại. Tôi thích đi Ottawa để xem cái vườn thiền đá ở viện bảo tàng thiên nhiên bên cạnh bờ sông Ottawa nhưng tôi sợ người trong gia đình không thích xem, bảo rằng chỉ có đá thôi mà cũng đòi xem.

Lâu đài này được làm bối cảnh cho nhiều phim trong đó có Chicago, và mới đây là hai tập phim cuối cùng của Harry Potter. Có một cái khung sắt, kiến trúc điêu khắc đã bị con khủng long chở ba người Harry, Hermione, và Ron bay lên khỏi hầm và làm vỡ cái khung sắt ấy.

Hai tấm ảnh đầu ở hàng thứ nhì là ảnh cây đàn organ với những cái ống pịpe gõ vào sẽ phát ra âm thanh, làm thành tiếng nhạc. Có cái đường hầm nối liền hai khu nhà (nhà chính và nhà xe với nhà trồng cây) để nhân viên không phải đi ra ngoài trời tuyết lạnh. Trong nhà cũng có một hai cầu thang bí mật đề phòng chủ nhân muốn thóat ra ngoài mà người trong nhà không kiểm sóat được. Muốn lên trên cao ra ngoài ban công phải sắp hàng chờ rất lâu tôi không đủ kiên nhẫn để chờ.

Thoáng nhìn góc phố Tàu Toronto

Một vài tấm ảnh chụp ở Toronto. Ghé phố Tàu (Chinatown) đi tìm trái cây Việt. Sau đó đi thăm trung tâm du lịch ở Toronto, nơi có Aquarium và tháp CN.

Tháp CN viết tắt từ chữ Central National, tên của công ty hỏa xa Canada lúc mới thành lập. Để được đi xem tháp du khách phải trả tiền vé khoảng chừng ba mươi Canada dollars. Trên đỉnh tháp có trò chơi mạo hiểm. Khách được đeo dây nịt an toàn và đứng ở rìa mép của vành tháp.

Tháp cao hơn 533 mét. Hoàn tất năm 1976. Giữ chức vô địch chiều cao được ba mươi bốn năm. Biểu hiệu nổi tiếng nhất của Canada.

Một nét thú vị của Toronto Canada là bây giờ người ta vẫn còn giữ hệ thống điện thoại công cộng treo tường. Muốn dùng điện thoại mà không có điện thoại trong nhà hay điện thoại cầm tay, người ta có thể bỏ tiền vào máy và gọi đến số người mình muốn nói chuyện. Những điện thoại này đã hầu như hoàn toàn biến mất ở New Jersey.

Con đưa mẹ đi chơi

Ngày xưa con còn bé thì mẹ dẫn đi chơi. Bây giờ thì ngược lại, mẹ già được con đưa đi chơi. Tôi nghe và nhìn thấy về hiện tượng empty nest. Nhiều người bạn quen biết với tôi thấy cô đơn khi tuổi già vì con cái đã rời khỏi gia đình. Rồi tôi cũng sẽ đến lúc ấy, nhưng bây giờ thì chưa. Biết con mình ngày càng lớn, càng đi xa, ít có dịp gặp con, nên tôi rủ con tôi đi chơi New York. Đây là một thành phố rộng lớn có rất nhiều thứ để xem, đi xem cả tháng cũng còn những thứ mình chưa xem chưa biết. Nội cái viện bảo tàng thiên nhiên ở New York, đi xem một ngày cũng chỉ được một phần nhỏ mà thôi. Còn viện bảo tàng nghệ thuật và Cloisters và MOMA và nhiều thứ nữa. Cô út hỏi tôi có muốn đi xem viện bảo tàng Cooper Hewitt không, tôi ừ ngay lập tức. Thứ Sáu tôi nghỉ một ngày, đi theo con. Tôi thích nhìn theo tầm nhìn của một người trẻ tuổi, bởi vì nó rất khác biệt với cái nhìn của mình. Đây là một chuyến đi rất thú vị, tôi học hỏi nhiều thứ hoàn toàn nằm ngoài sự hiểu biết hằng ngày của tôi.

Cô hoàn toàn tổ chức chuyến đi, từ chuyện đi xe lửa chuyến nào, giờ nào. Đi hướng nào đường nào, y như bố cô vậy. Nhưng bố cô lái xe còn hai chúng tôi không ưa chuyện phiền toái lái xe vào New York, chật chội, tìm chỗ đậu v.v…

Đi xe lửa vào New York, đi xe điện ngầm uptown tuyến C, xuống trạm 86, băng ngang Central Park.

Central Park đi chục lần vẫn còn muốn đi ngang. Tôi hẹn mình sẽ trở lại Central Park chụp cho hết ảnh những cái cầu. cầu thứ 24

Trước khi vào Cooper Hewitt (C. H.) chúng tôi đi ăn brunch ở một quán ăn kiểu Úc. Quán là một cái “chái” nhà thờ, chẳng biết gọi là alcove có đúng không. Nó là một cái phòng rất nhỏ trước khi vào phần chính của giáo đường. Cái chái này là cái phòng nhỏ của nhà thờ “Heavenly Rest.” Biến cái phòng nhỏ này thành một thứ café, có wifi, tôi sạc điện cho cái điện thoại ở đây, đề phòng tôi sẽ dùng hết điện vì chụp ảnh.

Tôi đã ăn sáng ở nhà, nhưng thấy cô ăn tôi cũng ăn. Gọi món giống như món cô gọi. Bánh mì nướng, bên trên là một lớp trái bơ thật dày. Phần ăn của cô có thêm quả trứng, phần của tôi không. Một chút nước sốt chua chua ngọt ngọt, vài miếng cà chua nhỏ như trái anh đào rất ngọt, vài cọng giá alfalfa và một ít cheese. bánh mì với avocado kiểu Úc

Ngay từ lúc ở ngoài cửa bảo tàng tôi đã thấy rất hứng khởi vì thấy bảng giới thiệu phim của Pixar. Viện bảo tàng khá nhỏ so với các viện bảo tàng khác. Đây là một viện bảo tàng của tư nhân, chuyên về design, thiết kế, mẫu quần áo, đồ trang sức, các mẫu vẽ sáng tạo như giấy dán tường, vải, kiến trúc, v.v… nhiều thứ lắm không thể nào gồm lại trong một câu. Bảo tàng là một nhánh của Smithsonian. Người trẻ, học sinh trung học, đại học, hai mươi ba mươi tuổi, đi xem chỗ này nhiều hơn người lớn tuổi.

Ấn tượng đậm nhất của tôi là khoa học kỹ thuật được áp dụng vào thiết kế sáng tạo. Đầu tiên chúng tôi được giao cho mỗi người một cây bút điện tử. Cây bút có hai đầu, đầu lớn có cái nút nhấn bên trên đóng dấy chữ thập. Đầu nhỏ nhọn giống như đầu cây bút. Khi gặp một vật đang được trưng bày, nếu muốn ghi nhận tài liệu về vật này, tôi ấn cái đầu chữ thập vào cái chữ thập trên bảng giới thiệu vật đang trưng bày. Tất cả chi tiết về vật trưng bày sẽ thu về một account của tôi, về nhà tôi chỉ cần gõ mã số bảo tàng dành cho tôi, sẽ tìm thấy những điều tôi đã ghi nhận.

Cái đầu nhỏ của cây bút có công dụng khác. Rất nhiều nơi trong bảo tàng có những cái bàn điện tử. Cây bút được dùng để chọn những đề tài người xem muốn tham khảo, bằng cách chọn một cái bong bóng đang bay trên mặt bàn có hình ảnh và chi tiết gói trong bong bóng. Kéo cái bong bóng bằng cây bút đến chỗ mình đang đứng, trước mặt trên bàn có một ô vuông dành riêng cho người sử dụng. Người xem có thể thêm bớt chi tiết, tự vẽ mẫu mã, chọn màu sắc, vật liệu để thiết kế thành một món đồ và nhìn thấy món đồ trong không gian (3D).

Cách kể chuyện bằng hình ảnh của hãng phim Pixar và các họa sĩ chuyên vẽ ảnh làm phim biểu lộ quan điểm nghệ thuật của họ.

13 đồng một bao nhang

Ghé tiệm bán đồ kỷ niệm của bảo tàng, thấy hộp chứa mấy bao nhang có chữ Việt. Không biết một gói nhang bán bao nhiêu ở VN nhưng ở bảo tàng giá là 13 Mỹ kim.

Đây là một thiết kế đặc biệt của Jenny E. Sabin. Một loại chỉ tơ có thể hút ánh sáng và tỏa ra ánh sáng. Nhẹ và mềm có thể cuốn lại, trong tương lai có thể được dùng làm lều cắm trại vì nó hút ánh sáng mặt trời và tỏa ra ánh sáng vào buổi tối.

Còn nhiều hình ảnh lắm, kể không hết, chỉ thêm vài tấm ảnh thú vị. Từ trái qua phải, trên xuống. Thủy tinh nấu chảy, làm thành cái lọ bằng từng lớp thủy tinh. Ánh sáng rọi qua lọ lung linh thành hình những đóa hoa ánh sáng.

Mấy cái lồng chim được thiết kế mỹ thuật, đồ sưu tầm của những vị chủ nhân, vốn là cháu (ngoại) của ông Cooper Hewitt, chủ cái gia tài đồ sộ này. Lúc khác tôi xin được viết thêm về một vài món trưng bày thật là thú vị trong bảo tàng này.

Một ngày rất gần tôi sẽ trở lại xem tiếp. Giá vào cửa khá rẻ. Con tôi mua vé cho tôi với giá senior, và vé của cô giá học sinh. Tôi nhớ cô bạn ở Austin lợi dụng mái tóc bạc của tôi và của cô mua vé senior cho chúng tôi. Chẳng ai kiểm sóat xem mình có nói láo không, vì làm thế là mất lịch sự, và chẳng ai muốn công nhận là mình già hơn tuổi bao giờ. Phải không?

Tôi nói với con bé, về sau mình sẽ khó có dịp đi chơi chung như thế này, vì con càng lớn càng (đi) xa, mẹ càng lúc càng già. Rồi sẽ có lúc con có gia đình riêng, cuộc sống riêng. Rồi mẹ sẽ già lụm cụm đi không nổi. Cô nói, mẹ ngồi xe lăn con đẩy mẹ đi. Không, không, mẹ không muốn làm phiền con như thế. Con nhỏ này đã từng hứa là khi nào con lớn con sẽ mua cho mẹ xe hơi loại thể thao màu đỏ mui trần đây. Ngày xưa, mình mà hứa với tụi nó cái gì thì phải lo mà giữ lời. Bây giờ mình tự nhủ đừng có vin vào lời hứa của con mà đâm ra mơ mộng hão.

Có đứa con chịu đưa mình đi chơi là tuyệt vời quá chừng rồi, phải không?

Công viên Nhật Bản ở Brooklyn

Nóng liên tiếp cả tuần, hai ngày trước 34 hay 35 độ C. Hôm nay mưa xuống mát mẻ còn lại chỉ 25 độ C. Thật là độ mát lý tưởng của mùa hè. Lại mưa nữa nên không phải đi đâu cả, ngồi ở nhà tám chuyện bâng quơ trên blog thôi.

Qua rồi những ngày căng thẳng của cá chết, những ồn ào nhộn nhịp của chuyến thăm Việt Nam của Tổng Thống Obama, tiếp nối của những ngày phương du xuân thảo địa, và sẵn có quyển sách bỏ túi Shinto của Ian Reader, tôi kể thêm các bạn nghe về công viên Nhật Bản ở Brooklyn.

Thành phố New York có 5 boroughs, Brooklyn là một trong 5 boroughs này. Borough tạm dịch là quận hay khu.

cổng vào công viên phần công viên Nhật

Đây là cổng vào. Tôi gọi tắt là Công viên Nhật Bản chứ nguyên tên của công viên là Japanese Hill-and-Pond Garden, công viên đồi và hồ kiểu Nhật, văn vẻ hơn tôi đoán có thể gọi là Sơn Hồ Viên. Hôm chúng tôi đến có nhiều toán học sinh, nhỏ từ năm sáu tuổi, lớn có thể mười sáu mười bảy tuổi đi xem công viên. Các học sinh mặc áo xanh, màu ngọc hay màu lá, dường như cũng là một cách ủng hộ phong trào bảo vệ thiên nhiên và môi trường.

sơ đồ của công viên Nhật Bản

Ở gần lối vào có cái sơ đồ  của công viên, bắt đầu mở cửa từ năm 1915, là công viên Nhật đầu tiên được kết hợp (nằm trong và là một phần của công viên Hoa Kỳ). Như thế chứng tỏ là Nhật đã có bang giao với Hoa Kỳ từ trước khi hai bên đánh nhau (thế chiến thứ Hai). Người Nhật đầu tư khuếch trương văn hóa Nhật Bản rất qui mô. Hằng năm đều có lễ hội mừng hoa đào rất lớn ở Washington D. C. thủ đô của Hoa Kỳ. Và ở rất nhiều thành phố lớn trên mọi tiểu bang của Hoa Kỳ, du khách đều tìm thấy công viên Nhật Bản xây dựng rất qui mô và đẹp mắt. Công viên Nhật là sự kết hợp hài hòa của thiên nhiên và nhân tạo, luôn có năm yếu tố (ngũ hành) trong triết học Đông phương. Người đi vòng quanh hồ thưởng ngoạn đồi, đá, hồ, cá, cây cối. Cây có liễu thướt tha, thông tùng sừng sững, cây loại hoa như đào được cắt xén theo hình đám mây. Mùa xuân người sẽ thấy những tấm mành hoa đào hay những cụm hoa đào như những áng mây màu hồng, màu tím nhạt, màu trắng.

Hễ bước vào công viên Nhật, du khách không khỏi nhìn thấy những cột đèn lồng (lantern), một nét đặc thù của văn hóa Nhật. Hồi đi xem Công viên Nhật ở Austin, tôi đã có chụp ảnh một số đèn lồng. Ở công viên Nhật ở Brooklyn tôi thấy có vài cái. Nếu bạn chưa xem ảnh đèn lồng ở Austin xin trở lại xem ở vài bài trước.

cột đèn lồng
cột đèn
đèn lồng

Cách thiết kế của cột đèn lồng Nhật (toro) theo nguyên tắc ngũ hành tuy nhiên có khi không đủ cả năm. Chân nối vào trong đất đá (địa). Đèn lồng của Nhật thường làm bằng đá, gỗ (mộc), hay bê tông (xi măng), và có khi tùy theo thời cũng làm bằng đồng(kim). Ở giữa cột là đèn (hỏa) đầu cột chạm vào trời (thiên). Đèn thường được trồng dọc theo mé hồ để soi sáng, có khi hai chân đèn chạm vào nước (thủy).

hai pho tượng đá trước ngôi đền làm mẩu
ngôi đền thờ Thần Đạo làm mẩu trưng bày

Như đã nói ở những bài trước, hễ ở đâu du khách nhìn thấy cổng đỏ torii thì biết là ở gần đó có đền thờ Shinto. Đây là đền Shinto trong vườn Nhật Brooklyn, do Takeo Shiota thiết kế. Shiota cũng là kiến trúc sư thiết kế công viên Nhật. Trước đền là tượng của hai con chồn. Thọat nhìn tôi tưởng là chó, có lẽ vì nhớ tới cuốn phim Hachita con chó trung thành, và biết người Nhật quí loại chó săn sống ở miền Bắc nước Nhật, Akita. Nhìn kỹ lại thấy giống chồn tôi ngờ ngợ nhớ lâu lắm rồi tôi đọc huyền thoại Nhật thấy có nói đến chồn, không hẳn là thần, nhưng là linh vật. Trong quyển Shinto cũng có nói sơ qua về tượng chồn đặt trước đền thờ.

Đa số người Nhật theo Thần Giáo (Shinto) tuy trước kia Shinto chỉ là một nhánh nhỏ của Phật Giáo Nhật Bản. Đền Shinto trước kia xây bên cạnh hay phía sau chùa. Người theo Shinto tin là mọi vật đều có anh linh, vì thế một vị tướng, một cái cây lâu đời, rừng, núi đồi, biển cả, hay một con thú khôn ngoan tuyệt diệu đều có thể là thần và được thờ. Những vị thần anh linh này là kami. Trong các vị thần to lớn và nổi tiếng trong Thần Giáo có Thần Canh Nông (Inari). Chồn không là thần (kami), chỉ là sứ giả của thần Canh Nông vì bản chất thông minh và khôn khéo.

Đọc là duyên

Trái ngược với nhà văn, nhiều người than phiền bị bế tắc. Vì không là nhà văn nên tôi không bao giờ có cảm giác viết … không ra. Khi tôi im lặng, không viết gì, chỉ đăng hình chụp đi chơi vớ vẩn, hay những cái gọi là “filler” cho đỡ trống trải, đó là vì tôi bận quá. Tôi bận nhiều thứ, trong đó có cái gọi là bận đọc. Nhiều khi tôi chỉ muốn đọc chứ không muốn viết gì cả. Tôi như một cô bé học trò, đến cuối mùa phải thi, chợt nhận ra có nhiều bài vở quá, nếu không học sẽ không được lên lớp. Cũng có khi vì tôi có quá nhiều đề tài muốn viết mà không đủ thì giờ dành riêng cho một chủ đề nào để viết cho đàng hoàng tươm tất.

Tôi đọc vì tò mò. Thí dụ như tôi xem phim Trumbo, về một nhà viết phim ảnh tài ba, phim của ông được nhiều giải thưởng, trong đó có Roman Holidays (người nào ngày xưa đọc Tuổi Ngọc ắt phải biết truyện này, được dịch ra và đăng từng kỳ, ai dịch thì tôi không nhớ), tôi tự hỏi vì sao một số các nhà văn của Hoa Kỳ, sống trong chế độ tư bản, lại tham gia đảng Cộng Sản. Chỉ từ cái thắc mắc này tôi đọc vài cuốn sách loại biên khảo. Rồi lan man qua vài câu hỏi khác tôi đọc một số chủ đề khác. Đọc xong thấy không có gì đáng viết ra vì vẫn còn thắc mắc một số điều nho nhỏ khác. Sau đó, quên gần hết những điều mình đã đọc. Bây giờ ngồi đây chẳng còn nhớ mình đã đọc gì, đã thắc mắc những gì.

Càng ngày càng nhận thấy, ngay cả chuyện đọc cũng là duyên. Đăng cái ảnh cánh cổng đỏ torii xong, lại tình cờ nhặt được một quyển sách nhỏ trong thư viện bỏ túi. Quyển sách nói về tôn giáo Shinto (Thần đạo) của Ian Reader. Mở ngay trang đầu tiên có mục lục tôi thấy trang 16 có torii – The Shinto Gateway nên mang về đọc tiếp. Nhờ quyển sách bé này tôi thấy thêm vài chi tiết về văn hóa Nhật, mà lúc trước tuy nhìn nhưng không thấy.

Torii thường được sơn màu đỏ sậm (vermillion) nhưng cũng có khi sơn đen, thường được làm bằng gỗ, nhưng cũng có khi làm bằng xi măng (concrete). Torii là biểu tượng phổ thông nhất và được chụp ảnh nhiều nhất. Ở Nhật Bản có lẽ có cả mấy chục ngàn cái torii, xuất hiện khắp nơi. Ai đến thăm Nhật Bản có lẽ đều nghe danh nếu không tận mắt nhìn thấy torii của đền thờ Itsukushima, mọc lên từ giữa biển duyên dáng chào mừng du khách.

Như đã nói ở phần trước, cổng đỏ torii là biểu tượng của Shinto, cứ thấy cổng đỏ là biết gần đó có ngôi đền thờ Thần Đạo. Torii cũng nói lên mối quan hệ chặt chẽ của Thần Đạo với nền văn hóa nông nghiệp Nhật Bản. Tuy nhiên torii không chỉ xuất hiện ở thôn quê, mà hầu hết ở tất cả mọi nơi, từ thâm sơn cùng cốc đến biển cả đến núi non, cả những nơi hoang phế, và ngay cả trong trung tâm thành phố.  Torii được xây trên nóc của tòa nhà tổng hành dinh của công ty mỹ phẩm Shiseido, Ganza – trung tâm của Tokyo.

Cánh cổng màu đỏ

Thỉnh thoảng xem phim Nhật tôi thường thấy có cái cổng màu đỏ. Tò mò không biết nó có ý nghĩa gì, tìm kiếm tôi biết đây là torii có lẽ đọc theo Hán Việt là điểu ngự hay điểu cư, có nghĩa là nơi cho chim đậu.

Torii thường thấy ở gần đền Thần Đạo (Shinto) hay đầu làng. Biết vườn Nhật Bản ở Brooklyn có torii nên tôi sang xem. Được biết Brooklyn Japanese Garden là một trong 25 vườn Nhật Bản đẹp hàng đầu nước Mỹ.

Từ nhà tôi sang Brooklyn khá gần chỉ có ba mươi lăm dặm (35 miles) mà bận đi mất hai giờ đồng hồ (đi lúc 9 giờ rưỡi) bận về mất ba tiếng (kẹt xe ở New York nhất là ở Holland Tunnel).

Chuyến đi Houston tháng 4 năm 2012

Hoa bluebonnet có một sự tích khá dễ thương. Ngày xưa hạn hán kéo dài, người và súc vật đói khát, rất nhiều người chết. Có một cô bé thổ dân cha mẹ chết đói để cô bé lại sống cùng với bộ lạc. Shaman cầu mưa, nhưng không có kết quả, cô bé mang tặng thần linh con búp bê độc nhất của cô. Con búp bê có dắt lông chim nhuộm màu xanh thẫm ngã sang màu tím. Lòng thành của cô làm thần linh cảm động nên ban mưa cho loài người. Từ đó nơi cánh đồng có mọc lên một loại hoa màu xanh thẫm, dấu vết của món quà cô gái dâng tặng thần linh, hoa giống na ná cái mũ của các nhà đầu bếp người ta đặt tên là bluebonnet.

Vẽ tranh trên đường phố Houston, Texas

 

 

Tôi đi Houston dự lễ tưởng niệm 49 ngày qua đời của người anh. Gia đình chở đi xem phố xá Houston đang ngày triển lãm tranh vẽ trên đường phố do hội bảo trợ những người khiếm thính tổ chức kỷ niệm 10 năm thành lập. Buổi sáng trời mưa to nên mãi đến quá trưa người ta mới có thể bắt đầu vẽ. Khi tôi đến thì đa số những bức tranh chỉ mới bắt đầu. Chỉ có một tác phẩm hoàn thành đó là tác phẩm mỹ nhân ngư đang vin vào chiếc thuyền. Người xem tranh phải đứng ở một vị trí nhất định, đã được họa sĩ đánh dấu, nhìn thì mới thấy tranh nổi ba chiều (3 dimensions). Tôi có thấy tên của một họa sĩ người Việt, nhưng chưa có tác phẩm.

Tôi cũng được đưa đi xem một thác nước nhân tạo, Williams Waterwall.

Người ra đi kẻ ở lại

Tôi có sẵn một cuốn ca dao tựa đề Nam Trung Bộ. Ông Tám đi Việt Nam về mang theo mấy cuốn ca dao.Tôi vừa đọc xong cuốn ca dao dày nhất trong số sách ông đem về. Để quên ở chỗ làm nên không nhớ chính xác tựa đề chỉ nhớ đại khái dân ca ca dao tục ngữ của Vũ Ngọc Phan. Tôi chọn quyển dày thứ nhì và bắt đầu đọc hôm nay Ca Dao Trữ Tình Việt Nam của nhà xuất bản Văn Học.

Để ý, trong ca dao, nói riêng về tình đôi lứa, tôi thấy người đàn ông ra đi thì nhiều, đa số đàn bà (và con gái) ở lại. Ca dao thường phản ánh tâm trạng người phụ nữ ở lại nhà thương nhớ người ra đi. Tôi muốn tìm ca dao với chủ đề người đàn bà ra đi, đi tìm chồng, tìm người thương, hay là đi để chạy trốn, đi du ngoạn cũng được, miễn là người đi là người đàn bà. Tôi tìm được một số, không nhiều, nhưng vẫn có.

Tôi nghĩ là bạn sẽ đoán ra hai câu:

Đói lòng ăn nửa trái sim,
Uống lưng bát nước đi tìm người thương.

Tuy nhiên, với hai câu này chúng ta không biết được chắc chắn, người đi là nam hay nữ.

Quyển ca dao của Vũ Ngọc Phan vì in đã lâu không xếp theo thứ tự, mặc dù có phân loại sơ sài. Quyển Ca Dao Trữ Tình xếp theo thứ tự ABC theo chữ đầu của câu. Điều này giúp người đọc khá nhiều. Tôi tìm ngay vào chữ Thuyền, Đò, Sông, v.v… nhưng cuối cùng rồi cũng sẽ đọc hết quyển. Cái lợi của ca dao là dễ đọc, dễ nhớ.

Thuyền ai trôi trước,
Cho tôi lướt tới cùng.
Chiều đã về trời đất mông lung
Phải duyên thì xích lại cho đỡ nùng tiếng thương
Trời một vùng đêm dài không hạn,
Mượn gió chiều gửi bạn ngàn sông.
Thân em là gái chưa chồng,
Tơ duyên có chắc như dòng nước không?
Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến đây chỗ rẽ của dòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào

Bắt đầu bằng chữ thuyền có nhiều bài ca dao, tuy nhiên những bài ca dao này vẫn không xác định người đi thuyền là người phụ nữ, thường khi nhân vật trong bài ca dao là người (có thể) ở trên bờ và hỏi người đi thuyền, chèo thuyền. Tôi chú ý bài thơ trên là ở hai câu đầu. Thuyền ai trôi trước, cho tôi lướt tới cùng. Điều này chứng tỏ là cả hai người đều đi trên sông. Tôi không chắc chắn, tuy nhiên có thể mấy câu đầu là của người đàn ông mở lời tán tỉnh. Mấy câu sau là của người con gái đáp lại lời tán tỉnh của người kia.

Ngày xưa, giao thông đường bộ chưa mấy tiện lợi. Đàn ông thì có đủ thứ lý do để ra đi, đi tìm công danh sự nghiệp, đi thi, đi làm quan ở triều đình, đi buôn bán kiếm sống, đi lính, đi khai hoang, đi làm sưu làm phu, v.v… Đường sông thì dễ đi hơn vì VN nhiều sông rạch. Người chồng đi thì người vợ ở lại.

Anh đi em ở lại nhà,
Vườn dâu em hái, mẹ già em trông

Hồi xưa là thế, chứ thời nay ca không phải dao thì là búa sửa lời là “Con thơ bóp mũi, mẹ già đuổi đi.” Nhưng cũng có lúc người đi lâu quá không về, thì người đàn bà cũng phải lên đường tìm kiếm chứ? Nếu họ không đi tìm thì lý do là gì, vẫn mẹ già con dại? Đâu phải lứa đôi nào cũng có mẹ già con dại? Giả tỉ như họ chưa phải là vợ chồng chỉ mới liếc ngó cười tủm tỉm với nhau thì chàng đi lâu quá thì nàng lập gia đình, nhưng nếu họ đã kết hôn, hay đã làm lễ hỏi, mà chàng bặt tin thì nàng có đi tìm không? Xã hội VN có cho phép người đàn bà lên đường tìm người thương một mình không?

Thuyền em bến dưới ngược lên,
Thuyền anh ở mạn sông trên mới về.
Đôi bên cửa máng song kề,
Bên ấy có chật thì về bên đây.

Bài thơ này thì cả hai người đều đi trên sông, nhưng họ chỉ mới quen nhau trên sông. Có thể nàng ở gần đâu đó hay chỉ buôn bán trên sông chứ không phải người làm cuộc du hành.

Ở mục Thuyền thì thế, mục Sông cũng chẳng khá hơn. Vẫn người phụ nữ ở lại trông ngóng người đã ra đi hay những lời ưỡm ờ người ta nói để tỏ tình. Tôi chưa đọc hết nhưng đang viết bỗng chợt nhớ hai câu (không chắc là có trong quyển Ca Dao Trữ Tình Việt Nam)

Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng vợ ngàn năm em cũng chờ.

Và,

Sông sâu sào ngắn khó dò,
Muốn sang thăm bậu ngặt đò không đưa

Câu này thì thật tình không biết nhân vật trong câu thơ là nam hay nữ.

Vài tấm ảnh ở trường đại học Johns Hopkins

Vòng tròn cắt thành tám miếng

Eight-part Circle (Granite, 1976/1987) Tác giả: Michael Heizer (American, 1944)

Sheila's song

Sheila's song phía sau

Sheila’s Song (1982, Steel). Tác giả: Anthony Caro (English, 1924)

một hành lang ở Johns Hopkins

Một trưa hè, đưa cô con út đi làm ở đại học Johns Hopkins, đi ngang một hành lang sáng sủa, trần nhà là cái vòm hình cung đẹp mắt. Trường có một vườn mỹ thuật triển lãm các hình tượng điêu khắc rất đẹp. Có một kiến trúc bằng thép gọi là Sheila’s Song, bài hát của Sheila, mình nhìn thì đoán là một loại dụng cụ để trình diễn nhạc nhưng chẳng giống kèn hay đàn. Mới nhìn lại tưởng là cái áo ngực.

Hôm nay là ngày nóng nhất của mùa hè. Tưởng đã sang mùa thu nhưng lại nóng khủng khiếp. Nhiệt độ ngoài trời 98 độ F, như thế là tương đương với thân nhiệt của loài người. Về nhà thấy trong nhà 88 độ F, mở quạt, máy lạnh chạy một hồi bây giờ là 85 độ. Ngoài trời vẫn còn 88 độ.

Câu hỏi đầu năm

Tell me, what is it you plan to do
With your one wild and precious life?
MARY OLIVER, “The Summer Day”

Nói đi, bạn tính sẽ làm gì
Với cuộc đời độc nhất, phóng túng và quí giá, của bạn?

Tôi chép đoạn này trong quyển Wild, from lost to found on the Pacific Crest Trail của Cheryl Strayed. Tôi cũng scan 2 trang tôi thấy hay mời bạn đọc.
Wild 196
Trang 196, Cheryl sau một ngày leo núi, uống nước bùn cô đã dùng bơm tay bơm nước vào chai, lọc và khử trùng bằng iodine. Mệt quá cô ngủ quên và tỉnh giấc khi có cảm tưởng hàng trăm bàn tay nhỏ mà mát lạnh sờ lên người cô.
wild 299
Trang trên này, tâm hồn Cheryl trưởng thành hơn vì cô biết tự chế chứ không luông tuồng trong chuyện tình dục nữa.

Thêm một số trích đoạn trong cùng quyển sách.

Quotes from Wild – From Lost to Found on the Pacific Crest Trail
Part One – THE TEN THOUSAND THINGS
The breaking of so great a thing should make a greater crack. WILLAM SHAKESPEARE, “Anthony and Cleopatra”

Part Two – TRACKS
The words are purposes
The words are maps
ADRIENNE RICH, “Diving into the Wreck”

Will you take me as I am?
Will you?
JONI MITCHELL, “California”

Part Three – RANGE OF LIGHT
We are now in the mountains and they are in us. . .
JOHN MUIR, My First Summer in the Sierra

If your Nerve, deny you –
Go above your Nerve –
EMILY DICKINSONS

Part Four – WILD
If I had no roof I made
Audacity my proof
ROBERT PINSKY, “Samurai Song”

Never never never give up
WINSTON CHURCHILL

Part Five – BOX OF RAIN
I am a slow walker, but I never walk back.
ABRAHAM LINCOLN

p. 233 “That was my father: the man who hadn’t fathered me. It amazed me every time. Again and again and again. Of all the wild things, his failure to love me the way he should have had always been the wildest thing of all. But on that night as I gazed out over the darkening land fifty-some nights out on the Pacific Crest Trail, it occurred to me that I didn’t have to be amazed by him anymore.”