Hài cú (haiku) và montage

Hôm nọ tôi nhặt được ở thư viện bỏ túi cuốn sách: Film Theory and Criticism – Introductory Readings, Fourth Edition. Edited by Gerald Mast, Marshall Cohen, and Leo Braudy. Quyển tiểu luận về phim ảnh này dày lắm. Tò mò, tôi lật xem mục lục và vài chương xem có gì dễ đọc không. Tôi gặp chương viết về hình thức của phim, tác giả là Sergei Eisenstein. Ba chớp ba nhoáng tôi tưởng có liên hệ đến ông Einstein nên ngừng lại một chút đọc vài trang rồi thấy một chùm thơ hài cú. Điều thú vị là ông Eisenstein đã nói về hình thức phôi thai, tượng hình của chữ Hán. Nhiều cái tượng hình của chữ nhập lại thành câu thơ. Ông so sánh với hình thức của phim. Nhiều khúc phim ngắn (short shot) được nối ghép lại với nhau thành một đoạn phim. Mỗi chữ hay mỗi đoạn phim mang một ý nghĩa. Nhiều chữ nhiều đoạn phim gom lại biến thành một ý nghĩa khác có chất chứa tình cảm hay triết lý nhân sinh, vân vân. Cách ghép phim này gọi là montage. Tôi không rành về phim ảnh nên hiểu đại khái đơn giản như thế. Hài cú là một thứ montage của những chữ ghép lại. Ông ví von như thế đúng hay sai thì tôi không biết, nhưng sẵn thấy mấy bài thơ hài cú thì chép lại đây hầu bạn đọc. Bài thơ cuối cùng được viết theo thể loại tanka, dài hơn hài cú hai câu.

A lonely crow
On leafless bough,
One autumn eve.

Con quạ lẻ loi
Trên cành trơ trụi lá
Một chiều thu

BASHO

What a resplendent moon!
It cast the shadow of pine boughs
Upon the mats.

Trăng sao mà rạng ngời
Soi bóng cành thông
Trên tấm đệm.

KIKAKU

An evening breeze blows.
The water ripples
Against the blue heron’s legs.

Gió chiều thoang thoảng
Sóng gợn lăn tăn
Ấp yêu chân hạc.

BUSON

It is early dawn.
The castle is surrounded
By the cries of wild ducks.

Bình minh
Lâu đài bị bao vây
Bởi tiếng kêu của vịt trời.

KYOROKU

O mountain pheasant
long are the feathers trail’st thou
on the wooded hill-side-
as long the nights seem to me
on lonely couch sleep seeking.

Ô kìa chàng chim trĩ
Đuôi lông vũ của chàng rất dài
trong khu rừng bên đồi
dài như đêm đen
trên giường cô đơn tìm giấc ngủ.

HITOMARO

Hoa cúc và mùa thu

cúc đại đóa vàng.jpg

Lighting the lantern
the yellow chrysanthemums
lose their color.

thắp lửa đèn lồng
những đóa cúc vàng
bị át màu. 

Cám ơn bác Tr. Hồi sáng dịch ba chớp ba nhoáng để đi làm. Chiều về sửa.

den-long
Stone lantern

Autumn evening
there’s joy also
in loneliness

Chiều thu
Có niềm vui
trong nỗi cô đơn

Buson

cuc-dai-doa-mau-tim

When the winter chrysanthemums go
there’s nothing to write about
but radishes

Khi mùa đông hoa cúc đã tàn
chẳng còn gì để làm thơ
ngoài củ cải

What voice,
what song, spider
in the autumn wind?

Giọng hát ai
bài hát nào, nhện
trong gió thu?

Basho

cuc-dai-doa-trang

We humans
squirming around
among the blossoming flowers

loài người chúng ta
xúm xít bu quanh
giữa rừng hoa nở

Autumn evening
It’s no light thing
being born a man

Chiều thu
Không phải chuyện tầm thường
sinh ra là đàn ông

Issa

Hài cú mùa thu của Buson

I go,
you stay;
two autumns.

Ta đi
Người ở lại;
Hai mùa thu 

Coolness-
the sound of the bell
as it leaves the bell.

Hơi lạnh-
Tiếng chuông
Khi rời khỏi chuông

Autumn evening-
there’s joy also
in loneliness.

Chiều thu
Có niềm vui
Trong nỗi quạnh hiu

Chrysanthemum growers-
you are the slaves
of Chrysanthemums.

Hỡi người trồng hoa cúc
Các người là nô lệ
Của hoa cúc.

Snow, tác phẩm của Maxence Fermine

snow - Maxence Fermine

The lời giới thiệu của một bạn trẻ, đọc nhiều, tôi đọc quyển Snow của Maxence Fermine. Chris Mulhern dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh. Quyển sách mỏng, thú vị, dễ đọc, có thể đọc xong trong vài tiếng đồng hồ. Một bonus cho bạn nào đang học tiếng Anh, có thể bắt đầu đọc bằng quyển này vì không đòi hỏi phải lật từ điển. Quyển sách không vì dùng chữ đơn giản mà mất hay. Nếu bạn thích không khí Nhật Bản, thơ haiku, tình cảm nhẹ nhàng, sẽ thích quyển sách, tuy thể loại của nó được xếp vào hàng văn (tiểu thuyết) nhưng nó rất đậm chất thơ. Bạn bắt đầu học làm thơ ư? Sẽ thấy thú vị với ý nghĩ của tác giả, người ta cần biết những gì để làm một bài thơ hài cú hay. Và trong tinh thần ngày lễ Valentine’s vốn được tin là ngày ca tụng tình yêu, quyển này cũng nói thêm là không có bài thơ nào hay bằng tình yêu đôi lứa. Nếu tôi tóm tắt cốt truyện bạn sẽ không còn gì hứng thú để đọc quyển sách rất mỏng này. Mấy chương ngắn phần đầu của quyển sách, mỗi chương được mở đầu bằng một bài thơ haiku.

Winter wind
– a monk, walking
in the wood
ISSA

Frozen in the night
the water-jar cracks
wakes me
BASHO

So cold
the white petal
I bring to my lips
SOSEKI

The skin of woman
the skin they conceal
how warm it is
SUTEJO

“You are a poet. but what do you know of the other arts? Do you know how to dance, or to paint, to write in calligraphy, or to compose musics?”

Yukio did not know what to say. He could feel his face turning red.

“I am a poet. I write poems. This is the only art that matters to me.”

“That is where you are wrong. For poetry is the music. the dance, the painting and the calligraphy of the soul. If you wish to become a master poet you will have to have the gift of the absolute artist. Your poems are marvellously beautiful, they flow, they have music. But they are white like the snow. You are not a painter, Yuko. Your poems have no color. And without it, they will remain invisible to the world.”

“Ngươi là thi sĩ, nhưng ngươi đã biết gì về những bộ môn nghệ thuật khác kia chứ. Ngươi có biết múa không, hay biết vẽ, biết viết thư pháp, hay sáng tác âm nhạc?” 

Yukio chẳng biết trả lời như thế nào. Chàng có cảm tưởng như mặt mình trở nên đỏ như gấc. 

“Tôi là thi sĩ. Tôi viết thành thơ. Chỉ có nghệ thuật này là quan trọng với tôi thôi.” 

“Đây cũng là khởi điểm mà người đã sai lầm. Bởi vì thơ chính là âm nhạc, là điệu múa, là tranh vẽ và thư pháp của tâm hồn. Nếu ngươi muốn trở thành một nhà thơ có tên tuổi ngươi phải có tài năng của những bậc nghệ sĩ thuần túy. Những bài thơ của ngươi rất hay, rất đẹp, nó trôi chảy và có nhạc điệu. Nhưng nó trắng bệt bạt như tuyết vậy. Ngươi không phải là họa sĩ. Yukio. Thơ của ngươi không có màu sắc. Và vì không màu sắc, nó sẽ mãi mãi vô hình với loài người.”

 

 

Về Tuyết

Trích trong tác phẩm “Snow” (Tuyết) của Orhan Pamuk. Trang 3.

The silence of snow, thought the man sitting just behind the bus driver. If this were the beginning of a poem, he would have called the thing he felt inside him the silence of snow.

Sự yên lặng của tuyết, người đàn ông ngồi phía sau anh tài xế xe buýt thầm nghĩ. Nếu đây là lúc khởi đầu của một bài thơ, anh sẽ gọi cái anh đang cảm thấy là sự yên lặng của tuyết.

@ @ @

Trích trong “Snow Country” (Xứ Tuyết) của Yasunari Kawabata. Trang 48.

Shimamura glanced up at her, and immediately lowered his head. The white in the depths of the mirror was the snow, and floating in the middle of it were the woman’s bright red cheeks. There was an indescribably fresh beauty in the contrast.

Was the sun already up? The brightness of the snow was more intense, it seemed to be burning icily. Against it, the woman’s hair became a clearer black, touched with a purple sheen.

Shimamura liếc nhìn nàng, và ngay tức khắc cúi đầu xuống. Cái màu trắng nằm sâu trong tấm gương là tuyết, và trôi bềnh bồng ở giữa đám tuyết ấy là màu má đỏ tươi của nàng. Trong cái tương phản ấy có nét đẹp thật tươi tắn không thể diễn tả được.

Mặt trời đã lên rồi phải không? Tuyết càng lúc càng trở nên chói chang hơn, đến độ dường như nó đốt cháy mọi thứ bằng cái băng giá của nó. Ngược lại với màu tuyết, mái tóc của người đàn bà càng đen rõ rệt hơn, óng ánh một màu tím sẫm phớt bên trên làn tóc.

@ @ @

Trích trong “The Kite Runner” (Người Đua Diều) của Khaled Hosseini. Trang 48 và 49.

Winter

Here is what I do on the first day of snowfall every year: I step out of the house early in the morning, still in my pajamas, hugging my arms against the chill. I find the driveway, my father’s car, the walls, the trees, the rooftops, and the hills buried under a foot of snow. I smile. The sky is seamless and blue, the snow is so white my eyes burn. I shovel a handful of the fresh snow into my mouth, listen to the muffled stillness broken only by the cawing of crows. I walked down the front steps, barefoot, and call for Hassan to come out and see.

[…]

I love wintertime in Kabul. I loved it for the soft pattering of snow against my window at night, for the way fresh snow crunched under my black rubber boots, for the warmth of the cast-iron stove as the wind screeched through the yards, the streets. But mostly because, as the trees froze and ice sheathed the roads, the chill between Baba and me thawed a little. And the reason for that was the kites. Baba and I lived in the same house, but in different spheres of existence. Kites were the one paper thin slice of intersection between those spheres.

Mùa Đông

Đây là những điều tôi làm trong ngày tuyết rơi đầu tiên hằng năm. Tôi ra khỏi nhà lúc sáng sớm, vẫn còn trong bộ đồ ngủ, khoanh tay chống lạnh. Tôi tìm con đường xe chạy vào nhà, xe của bố, mấy cái vách tường, hàng cây, nóc nhà, và những ngọn đồi bị chôn vùi dưới cả thước tuyết. Tôi mỉm cười. Bầu trời xanh bất tận, tuyết trắng đến nhức cả mắt. Tôi vốc một nắm tuyết cho vào mồm, lắng nghe sự tĩnh mịch của tuyết bị phá tan bởi tiếng quạ kêu. Tôi bước xuống thềm, đi chân không, và gọi Hassan thức dậy ra đây mà xem.

[…]

Tôi yêu mùa đông ở Kabul. Tôi yêu nó vì tiếng tuyết vỗ mềm mại vào cửa sổ ban đêm, vì tiếng tuyết mới rơi vỡ giòn dưới gót cao su của đôi ủng, vì hơi ấm của lò nướng bằng sắt khi gió rít qua sân qua đường phố. Nhưng chính yếu là vì, khi cây cối đông cứng và băng giá che lấp mặt đường, sự lạnh lẽo giữa bố và tôi dường như tan chảy đi một chút. Lý do cho sự tan chảy này là bởi vì những con diều. Bố và tôi sống trong cùng một nhà nhưng hiện diện ở hai quả cầu khác nhau. Mấy con diều là sự giao hiệp mỏng manh như tờ giấy giữa hai quả cầu này.

@ @ @

Thơ Basho – On Love and Barley bản dịch sang tiếng Anh của Lucien Stryk.

Snowy morning
One crow
after another

Buổi sáng đầy tuyết
Tiếng quạ
Triền miên

(trang 128)

come, let’s go
snow-viewing
till we’re buried

Đến đây, hãy cùng nhau
ngắm tuyết rơi
cho đến khi bị tuyết chôn vùi

(trang 133)

Awaiting snow.
poets in their cups
see lightning flash

chờ tuyết rơi
thi sĩ nhìn trong chén
thấy chớp lóe

(trang 155)

Tuyết trắng trên cành vọng trời xanh