Nhạc Blues trong văn học Hoa Kỳ

Xin mời các bạn đọc bài này trên trang Gió O.

Nhạc Blues và ca dao Việt Nam phần 1

Nhạc Jazz phần 1.

Nhạc Jazz phần 2. 

nghệ sĩ thôi kèn

And far into the night he crooned that tune.
The stars went out and so did the moon.
the singer stopped playing and went to bed
While the Weary Blues echoed through his head.
He slept like a rock or a man that’s dead.

(Đoạn cuối cùng trích trong bài thơ The Weary Blues của Langston Hughes.)

Sâu lắng vào đêm, chàng cất giọng
Sao và trăng lặn tắt trong mây
Chàng ca sĩ ngừng ca rồi đi ngủ
Điệu Blues mỏi mòn âm vọng xoay
Chàng ngủ say quên cả đất trời
Như hòn đá hay như người đã chết.

Dấu vết nhạc Jazz trong văn học Hoa Kỳ, phần 3

Nhạc Jazz trong truyện của F. Scott Fitzgerald

Bên cạnh jazz, âm nhạc của Hoa Kỳ, Haruki Murakami còn ngưỡng mộ văn của Fitzgerald. Fitzgerald thuộc về “The Lost Generations,” cùng với Hemingway, Stein, Cole Porter (nhạc sĩ jazz chuyên về dương cầm), Josephine Baker (nghệ sĩ trình diễn) và rất nhiều nhạc sĩ jazz đã sang Paris vì nơi ấy cuộc sống ít đắt đỏ hơn cuộc sống ở Hoa Kỳ nhưng điều chính yếu là các nhạc sĩ jazz, phần lớn là nhạc sĩ da đen, cảm thấy họ có tự do sáng tác, tự do trình diễn và không bị kỳ thị như ở Hoa Kỳ. Louis Amstrong cũng từng sang Paris trình diễn. Nhạc jazz được các nhạc sĩ da đen đặc biệt yêu mến vì đây là lãnh vực mà họ tìm được sự tự do biểu hiện tính chất cá nhân qua sự trình diễn âm nhạc. Mỗi bản nhạc jazz là một cách biểu hiện hoàn toàn mang tính chất cá nhân.

The Great Gatsby (1925), Tales of the Jazz Age (1922), The Flappers and Philosophers (1921) là những tác phẩm của F. Scott Fitzgerald có liên quan đến nhạc Jazz. Cái ảnh hưởng của jazz trong tác phẩm của Gatsby không rõ rệt lắm. Ở truyện The Great Gatsby, lúc mở đầu buổi dạ hội thứ nhì, Gatsby mời Daisy và chồng của nàng đến dự, Fitzgerald viết:

Có tiếng bùm bùm của trống bass, và giọng của vị nhạc trưởng thình lình vang vọng ở vườn hoa. “Kính thưa quí vị,” ông nói. “Thể theo lời yêu cầu của ông Gatsby chúng tôi sẽ trình diễn tác phẩm của nhạc sĩ Tostoff, người đã gợi chú ý ở Carnegie Hall vào tháng Năm vừa qua. Nếu quí vị có đọc báo, quí vị ắt biết tin này nóng sốt biết dường nào. Ông ta mỉm cười nhạo báng, và nói thêm: “Thật là nóng hổi!” khiến cho mọi người cười vang. “Tên nhạc khúc này là,” ông ta nói thêm đầy mời mọc, “LỊCH SỬ JAZZ CỦA THẾ GIỚI của nhạc sĩ Vladimir Tostoff.”[1]

Chỉ mang chữ jazz vào truyện thì không thể nói là chịu ảnh hưởng của nhạc jazz. Flapper cũng là một danh từ thường dùng trong thời kỳ nhạc jazz, dùng để chỉ một kiểu mẫu của phụ nữ theo thời trang Âu châu, tóc ngắn kiểu pompei (bom bê), đội mũ nồi, váy ngắn ngang tầm đầu gối, trang điểm đậm, thích nhạc jazz, hút thuốc, lái xe, xem nhẹ quan hệ tình dục, không quan trọng chuyện hôn nhân. Tóm lại, là những cô gái mệnh danh là yêu cuồng sống vội. Truyện của Fitzgerald, nếu có ảnh hưởng của nhạc jazz, thì đó là những truyện miêu tả đời sống xã hội với những cuộc hôn nhân phù phiếm, cách sống xa hoa, như chính cuộc hôn nhân của F. Scott với cô vợ Zelda. Truyện ngắn The Offshore Pirate trong tuyển tập The Tales of the Jazz Age tôi thấy có chút ít hơi hướm của nhạc jazz, blues thì đúng hơn. Truyện nói về một cô gái trẻ và đẹp đang ở trên một du thuyền. Gia đình cô chuẩn bị mai mối gả cưới cô cho một chàng trai con nhà giàu nào đó nhưng cô muốn bỏ trốn. Cô muốn tự tìm cho mình một anh chồng phiêu lưu và lãng mạn. Giữa lúc cô đang nghĩ ngợi thì thuyền của cô gặp một chiếc thuyền nhỏ hơn. Những người chèo thuyền là người da đen, và họ hát những câu hát rất hay khi họ chèo thuyền. Thuyền họ song song và cặp sát thuyền cô. Người trưởng toán là một anh chàng trẻ tuổi khá đẹp trai, dĩ nhiên là da trắng, tuyên bố anh ta là trưởng đoàn hải tặc và họ chiếm thuyền của cô. Chuyện rất thơ mộng và kết cuộc rất đẹp nên chẳng có gì đáng để nói, ngoại trừ đoàn hải tặc này vốn là một ban nhạc jazz.

Từ phía dưới bỗng dưng vọng lên giọng hát trầm trầm. Nhóm người da đen đã tụ tập lại trên khoang tàu và giọng hát của họ to dần lên một điệu nhạc khắc khoải hòa quyện nỗi buồn phiền bay về hướng mặt trăng. Ardita nghe như bị mê hoặc.

Ồ xuống đây-

Ồ xuống đây,

Mạ muốn lôi tôi xuống khỏi dòng ngân hà,

Ồ xuống đây,

Cha bảo rằng để ma-a-a-ai

Nhưng mạ cương quyết bữa nay

Vâng – mạ nói bữa nay thì bữa nay![2]


[1]Fitzgerald, Francis Scott. The Great Gatsby (Kindle Locations 666-671). Feedbooks.

[2] Fitzgerald, F. Scott. Jazz Age Stories – Edited with an introduction and explanatory notes by Patrick O’Donnell, New York: Penguin Books, 1998. p. 17

Bài ca Blues (buồn) của Sonny

All I know about music is that not many people ever really hear it. And even then, on the rare occasions when something opens within, and the music enters, what we mainly hear, or hear corroborated, are personal, private, vanishing evocations. But the man who creates the music is hearing something else, is dealing with the roar rising from the void and imposing order on it as it hits the air. What is evoked in him, then, is of another order, more terrible because it has no words, and triumphant, too, for that same reason. And his triumph, when he triumphs, is ours.

James Baldwin – Trích từ tác phẩm Sonny’s Blues (Bài Ca Buồn của Sonny)

Tất cả những điều tôi hiểu biết về âm nhạc là không mấy người thật sự nghe nhạc. Ngay cả những lúc thật hiếm hoi, khi lòng chúng ta mở cửa, cho âm nhạc đi vào, những điều chủ yếu chúng ta nghe, hoặc nghe để phụ họa, là những điều rất riêng tư, những ký ức đã và đang biến mất. Nhưng người nhạc sĩ sáng tạo ra âm nhạc thì lại nghe cái gì đó rất khác, anh ấy phải đối phó với cái tiếng gào thét đang dâng lên trong hố thẳm của tâm hồn và thiết lập trật tự trên cái tiếng gào thét ấy khi nó xuất hiện. Cái đã trổi dậy bên trong anh ấy, lại nằm ở một trạng thái trật tự khác, càng đáng khiếp hãi hơn vì nó không có lời nói, rồi cũng vì không có lời nói mà nó thắng thế. Và sự thắng cuộc của người nhạc sĩ, khi anh ấy thật sự thắng, cũng là sự thắng cuộc của chúng ta.

Không hiểu nghĩa chữ hear corroborated. Ai biết chỉ dùm, tôi cám ơn.

Dấu vết nhạc Jazz trong văn học Hoa Kỳ, phần 2

Sơ lược về lịch sử nhạc Jazz.

Jelly Roll Morton, một nhạc sĩ jazz nổi tiếng, năm 1938, đã tuyên bố trong chương trình “Believe it or Not” của Robert Ripley, ông ta là người sáng lập ra nhạc jazz từ năm 1902.[1] Mặc dù cho rằng Morton nói phóng đại, nhiều người cùng thời, trong đó có Louis Amstrong,[2] công nhận sự hiện diện của những ban nhạc jazz ở thành phố New Orleans vào năm 1906, trong các khu phố đèn đỏ. Vào những năm đầu của thế kỷ hai mươi, nhạc jazz bị xem là sa đọa và thấp hèn. Đó là loại nhạc của loài quỷ sứ. Jazz luôn đi kèm với tình dục, rượu, và các loại ma túy (Jazz, Sex, và Drug). Phim “Chicago” cho khán giả nhìn thấy phần nào bộ mặt sa đọa đầy dục vọng của thời kỳ vàng son của nền nhạc Jazz ở Chicago. Sự phát triển mạnh mẽ của nhạc jazz ở Chicago đã khiến các nhạc sĩ ở New Orleans di cư từ Nam lên Bắc để sinh sống bằng âm nhạc.

Theo Bill Messenger, trong quyển sách audio “Elements of Jazz,” nhạc jazz là sự kết hợp của ragtime với nhạc blues dân ca cổ truyền. Loại nhạc blues này của những người nô lệ da đen, khi làm việc trong các đồn điền, đốn gỗ, hái bông, hay xây dựng đường rầy xe lửa, họ hát hò đối đáp với nhau để giúp vui quên mệt. Lời hát của họ thường rất đơn giản, phô bày cảm xúc nhất thời. Nhạc cụ của blues cổ truyền rất đơn giản gồm có trống, đàn banjo, mandolin, hay những nhịp vỗ tay. Trong đồn điền khi có tiệc, người ta thường tổ chức cuộc thi cakewalk. Như cái tên của cuộc thi, cái bánh là phần thưởng để ở một cái bàn nào đó. Người dự thi, sắp hàng đi đến nơi đặt cái bánh, trong tiếng nhạc. Ai đi hay nhất, đẹp nhất sẽ được thưởng cái bánh.[3] Loại nhạc dùng cho những buổi cakewalk ban đầu là ragtime. Ragtime là biến thể của nhạc du nhập từ châu Âu. Rag là biến thể của chữ ragg, biến đổi của nhịp điệu cho đến khi nó thành một bản nhạc mới. Bill Messenger, đưa thí dụ, thay vì đánh nhịp 1, 2, 3, 4, người ta nuốt mất một nhịp 2 hay 3, hay kết hợp 2 với 3 thành một nhịp. Cách biến đổi này còn gọi là syncopation. Người ta có thể dựa vào những bản nhạc cổ điển chính thống và phổ biến rồi biến đổi chúng thành những bản nhạc khác hẳn bằng phương pháp syncopation. Ragtime là lấy theo tên của bản nhạc “Maple Leaf Rag” của nhạc sĩ Scott Joplin, một nhạc sĩ da đen, nhà rất nghèo. Bố của Scott Joplin có được cây đàn piano và Joplin học nhạc với một vị mục sư người da trắng trong làng. Được đào tạo bằng nhạc cổ điển Tây phương nên ông rất hổ thẹn không dám sáng tác nhạc ragtime. Mãi khi ông trưởng thành mới bắt đầu sáng tác ragtime và sau đó ông mê mải sáng tác không ngừng. Nói ragtime nghe có vẻ xa lạ, nhưng nếu bạn ở Hoa Kỳ và từng nghe tiếng nhạc phát ra từ những xe bán kem dạo, rất có thể bạn đã từng nghe một bản ragtime.[4]

Scott Joplin qua đời năm 1917, đánh dấu cái chết của ragtime và sự ra đời của nhạc jazz. Điệu khiêu vũ swing cũng bắt đầu vào thời kỳ này. Nhạc jazz được trình diễn để giúp vui khách trên những chuyến tàu trên sông Mississippi đi từ New Orleans đến thành phố Chicago. Các ban nhạc jazz trình diễn trên các chuyến tàu đển phục vụ khách đi thuyền. Cũng trong năm 1917, máy thâu đĩa nhạc được sáng chế, và những bản nhạc với nốt nhạc được in ra trên giấy. Một ban nhạc jazz mà các nhạc công đều là người da trắng lấy tên là Original Dixieland Jass Band bắt đầu thâu đĩa nhạc đầu tiên, càng làm nhạc khiêu vũ swing trở thành cơn sốt của thời đại. Năm 1920, theo sử gia James Lincoln Collier, nhạc jazz trở thành loại nhạc ai cũng thích cũng biết và người ta bắt chước nhạc jazz, sáng tác và trình diễn khắp nơi.[5]

Những năm đầu của thập niên hai mươi, nhạc jazz luôn luôn ở giữa cuộc dằng co của hai phái. Một xem jazz là nhạc nghệ thuật; bên kia xem thường giá trị của jazz cho đó chỉ là nhạc giải trí. Năm 1922, Fitzgerald đưa một xấp bản thảo cho Max Perskin. Theo Bill Mesenger, Fitzgerald không biết đặt tựa đề là gì nên gọi đại là Tales of the Jazz Age. Cái tên Jazz Age xuất phát từ Fitzgerald góp phần thay đổi địa vị của Jazz trong mắt các nhà phê bình nghệ thuật. Năm 1924, Paul Whiteman đưa ban nhạc jazz vào trình diễn ở thính phòng Aeolian Hall của thành phố New York. Nhạc jazz được sáng tác và trình diễn với cấu trúc và hòa hợp của giàn nhạc giao hưởng. Nhiều nhạc sĩ tài hoa gia nhập giàn nhạc của Paul Whiteman trong đó có Bix Beiderbecke. Năm 1928, Beiderbecke nổi tiếng với sự trình diễn thành công bản nhạc Concerto in F của nhạc sĩ Gershwin. Cuộc đời của Beiderbecke được Dorothy Baker tiểu thuyết hóa trong tác phẩm “Young Man with a Horn” và tác phẩm này được dựng thành phim.

Sự thành công rực rỡ của Louis Amstrong khiến giới âm nhạc chú ý đến những nhạc sĩ jazz người da đen nhiều hơn. Duke Ellington là một trong những nhạc sĩ thành công này. Jazz phát triển huy hoàng từ năm 1917 cho đến năm 1929 thì vỡ tan theo bong bóng của thị trường chứng khoán. Nền kinh tế suy sụp khiến các ban nhạc jazz phải giải tán.

Giữa thập niên ba mươi, thế hệ trẻ lớn lên và tìm kiếm dấu ấn âm nhạc của họ. Benny Goodman, người của thế hệ mới, được mệnh danh là ông Hoàng của nhạc Jazz. Năm 1938, Goodman đưa giàn nhạc jazz của ông đến trình diễn ở nhạc viện Carnegie Hall, một trong những nhạc viện danh giá nhất Hoa Kỳ và thế giới.

Vào thời kỳ thế chiến thứ Hai, các ban nhạc jazz lớn lại thêm một lần yểu mệnh. Charlie “Bird” Parker, nhạc sĩ saxophone, người luôn tin tưởng ông là nhạc sĩ của nghệ thuật, thích nhạc cổ điển và rất muốn học sáng tác nhạc. Tuy nhiên, bạc phúc, ông nghiện bạch phiến và qua đời ở tuổi 34 năm 1955. Cùng thời với Parker là Thelonious Monk (dương cầm), Miles Davis (trumpet), và John Coltrane (saxophone). Đây là những tên tuổi lừng danh của nền nhạc jazz được nhiều người trên thế giới yêu mến trong đó có nhà văn lừng danh Murakami. Tất cả những chi tiết nói trên tôi tóm tắt dựa vào bài tiểu luận Jazz của Terry Teachout.[6]

Trở lại với Bill Messenger, tiến trình hình thành và phát triển của nhạc jazz được ông thuyết trình qua những tiểu đề của quyển sách Elements of Jazz. Đầu tiên là nhạc blues dân ca cổ truyền ở đồn điền, kết hợp với nhạc châu Âu thành ragtime, ragtime phát triển rồi suy tàn, nhạc jazz trở nên hưng thịnh, blues biến hình và phát triển đặc biệt qua các giọng ca nữ, nhạc swing ra đời phát triển như một cơn bão, đến Boogie Woogie, đến những ban nhạc blues lớn, nhạc be bop là một hình thức chống lại sự thịnh hành của swing, sau đó đến sự phát triển jazz hiện đại từ thập niên năm mươi cho đến thập niên chín mươi. Tuy ngày nay nhạc jazz hiện đại vẫn còn có khán giả, blues biến thành fusion và rock’n’roll.

Xin mời bạn đọc toàn phần ở Gió O. Jazz trong văn học Hoa Kỳ.


[1] Teachout, Terry. “Jazz.” The Wilson Quarterly (1976-), Vol. 12, No. 3 (Summer, 1988), pp 66-76, http://www.jstor.org/stable/40257338, Tham khảo ngày: 19-07-2015.

[2] Louis Amstrong là một thiên tài của nền nhạc. Ông có tài trình diễn kèn đồng, và có giọng hát trầm và khàn. Ông khuếch động sáng tạo trong trình tấu độc diễn bằng syncopation, nhạc trưởng của hai ban nhạc jazz nổi tiếng Hot Five và Hot Seven.

[3] https://www.youtube.com/watch?v=GCsptiarrzw

hoặc là https://www.youtube.com/watch?v=BkXQX1C9VWo

[4] Messenger, Bill. “Elements of Jazz – From Cakewalk to fusion.” CD book. Springfield, VA: Teaching Co., 1998.

[5] Tương tự Terry Teachout.

[6] Terry Teachout là nhà phê bình nhạc jazz của báo Kansas City Star (1977–83). Ông cũng là nhà tư vấn về các bộ môn âm nhạc nghệ thuật của Time-Life Records Giants of Jazz. Ông sử dụng đàn bass và dương cầm.

Dấu vết nhạc Jazz trong văn học Hoa Kỳ, phần 1

Ảnh hưởng của nhạc Jazz đối với nhà văn Haruki Murakami

Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bản rất được độc giả Việt Nam yêu chuộng, đã mở một quán nhạc jazz trước khi trở thành nhà văn. Theo Murakami, nhạc jazz có sức ảnh hưởng sâu đậm đến sự phát triển tài năng của ông. Ông viết văn hay là nhờ ông nghe và yêu thích nhạc jazz.

Dù là âm nhạc hay truyện, điều căn bản là nhịp điệu. Văn phong của bạn cần phải có nhịp điệu vững vàng, tự nhiên, và đều đặn, nếu không thì độc giả sẽ không tiếp tục đọc tác phẩm của bạn. Tôi học sự quan trọng của nhịp điệu trong âm nhạc – và căn bản là ở nhạc jazz.[1]

Năm 1964, Murakami lần đầu tiên đi xem nhạc jazz ở Kobe. Buổi xem nhạc sống này để lại ấn tượng rất sâu đậm trong tâm hồn ông. Murakami bảo rằng văn phong của ông ảnh hưởng sâu đậm bởi “repeated freewheeling riffs”[2] của Charlie Parker cũng như vẻ thanh thoát trong văn phong của F. Scott Fitzgerald. Fitzgerald là nhà văn nổi tiếng cùng thời kỳ vàng son của nền âm nhạc jazz, suốt thập niên 1920, đặc biệt với tác phẩm The Great Gatsby. Tác phẩm này được Murakami nhắc đến trong “Rừng Na Uy,” quyển sách đầu tiên đưa ông đến đài danh vọng. Murakami bảo rằng ông dùng sự đổi mới của nhạc sĩ Miles Davis làm khuôn mẫu  cho cách viết văn và tìm cách sáng tạo ra những ý tưởng mới từ những ý tưởng cũ như cách trình diễn dương cầm của nhạc sĩ Thelonious Monk.[3] Charlie Parker, Miles Davis, và Thelonious Monk đều là những danh tài của nền nhạc jazz Hoa Kỳ.

Murakami cho thấy ảnh hưởng của nhạc jazz đối với một nhà văn Nhật Bản. Thế thì, có lẽ nhạc jazz cũng ảnh hưởng đến văn học Hoa Kỳ? Để cảm nhận thêm sâu sắc cái hay trong văn của Murakami, hiểu biết thêm về jazz, có lẽ, cũng là điều có ích? Người dịch truyện của Murakami có cần phải biết nhạc jazz để lột tả cho hết văn phong của Murakami? Nhưng dẫu nhạc jazz chẳng có tác động gì đến văn học, hiểu biết thêm về jazz, một nét văn hóa đặc thù của Hoa Kỳ, cũng có ít nhiều thú vị. Trước khi tìm hiểu ảnh hưởng của nhạc jazz trong nền văn học Hoa Kỳ đương đại tôi xin phép được tóm tắt về tiến trình phát triển của nhạc jazz ở Hoa Kỳ.


Chú thích.

[1] Murakami, Haruki. “Jazz Messenger.”, The New York Times [ New York], 08 July, 2007, http://www.nytimes.com/2007/07/08/books/review/Murakami-t.html?_r=1&

[2] Riff là một từ chuyên môn dùng trong âm nhạc, jazz và rock, để chỉ sự lập lại của nhịp điệu, hay một số nốt nhạc, với một chút thay đổi của một nốt nhạc trong một nhóm nốt nhạc hay bỏ một nhịp (của trống hay bass) trong một chuỗi nhịp điệu.

[3] Tương tự như footnote Haruki Murakami [1].

Tìm thì sẽ gặp

tranh tường
Ban Nhạc Jazz

saxophonist
Nhạc sĩ saxophone

nhạc sĩ dương cầm và kèn trumpet
nhạc sĩ dương cầm và kèn trumpet

Khi tôi bắt đầu chú ý đến jazz thì đi đâu tôi cũng bắt gặp những nét văn hóa đặc thù của jazz. Nhiều khi nhìn cái trước mắt thì không thấy, nhưng nếu thật sự kiếm tìm, thì sẽ gặp. Xem hay đọc ngay cả chơi đùa cũng có nhân duyên của nó.

Đây là tranh ghép bằng những viên gạch men bóng (mosiac). Bức tường có bức tranh này ở trong nhà ga xe lửa ở thành phố tôi đang làm việc. Người phụ trách việc mời họa sĩ, chọn tranh, v.v… vừa mới về hưu trong tháng Tám. Trước khi bà về hưu tình cờ tôi gặp bà trong thang máy, chào hỏi dăm câu, bà hỏi tôi việc làm như thế nào. Tôi trả lời hanging in there. Bà hỏi bao lâu tôi nói ba năm. Bà cười bảo rằng bà chỉ cần hangin’ 40 ngày. Tôi chúc mừng bà với một chút ganh tị. Nhìn bức tranh tôi nghĩ đến thành quả của bà, mang cái đẹp đến cho mọi người chiêm ngưỡng. Biết bao nhiêu người qua nơi ấy mỗi ngày, có mấy người để ý đến bức tranh. Tôi nghĩ, người ở Hoa Kỳ mà không chú ý đến nhạc jazz thì cũng là một mất mát về văn hóa Hoa Kỳ.

Jazz, Haruki Murakami, và the Great Gatsby

Hôm nọ tôi tuyên bố sẽ viết một blog về nhạc jazz trong văn học rồi tôi im luôn từ hôm đó đến nay, giống như mình hứa lèo hứa cuội. Thật ra từ hôm đó đến nay tôi đọc rất nhiều sách liên quan đến jazz rồi như bị trói trong đống chỉ rối rắm tôi chưa tìm được lối ra. Jazz thì mông lung rộng lớn, nhiều thời kỳ, nhiều thể loại. Trong jazz có ragtime, swing, blues, modern jazz. Ảnh hưởng đến văn học thì ảnh hưởng cách nào? Đem jazz vào làm bối cảnh? Viết về cuộc đời nhạc sĩ jazz, hay biến nhạc sĩ jazz thành nhân vật? Dùng âm thanh và nhịp điệu của jazz làm nền tảng cho âm thanh và nhịp điệu của tác phẩm? Haruki Murakami bảo rằng ông nghe trong đầu ông âm thanh cuồn cuộn tung xoáy chừng như dòng nhạc này cũng muốn trào ra theo văn của ông. Trong một bài báo trên the New York Times (The Jazz Messenger) ông nói đến sự đồng dạng của nhạc jazz với viết văn, cả hai thể loại này đều cần có một nhịp điệu tự nhiên, dễ dàng, đều đặn. Chữ nghĩa được sắp xếp sao cho phù hợp nhịp nhàng, cần phải biết du di biến đổi chứ không nhất thiết phải tuân theo một qui luật bất di bất dịch (free improvisation). Ông cho là văn phong của ông bắt nguồn từ nhạc jazz. Nói như vậy thì khi bạn đọc văn của Murakami bạn có nghe được nhạc jazz tuôn trào ra không? Chắc chắn là không! Khi bạn đọc một tác phẩm của Murakami mới xuất bản gần đây, Tsukuru và nhạc khúc hành hương, bạn có nghe nhạc cổ điển Tây phương luân lưu vần vũ trong trí tưởng không? Đó là điều tác giả muốn độc giả cảm nhận, còn độc giả có thể cảm nhận cho đúng với ý muốn của tác giả hay không thì đó là chuyện khác.

Nói đến nhạc jazz của người Mỹ da đen mà lại bắt đầu với một nhà văn Nhật, người tuyên bố là văn phong của ông ảnh hưởng bởi nhạc jazz thì có lẽ bạn thấy sự lan truyền mạnh mẽ của nhạc jazz từ Tây sang Đông. Chắc chắn là nhạc jazz rất phổ biến ở Nhật bởi vì trong những cuộn phim xưa của Nhật từ năm 1948 đến năm 1956 tôi thấy dấu vết nhạc jazz. Trong tuần lễ thứ hai của chương trình nhạc “Jazz in the Garden” tổ chức ở thành phố Newark, New Jersey, nhạc sĩ jazz biễu diễn đàn organ hôm ấy là một người Nhật, bà Akiko. Bà được đào tạo ở Nhật nhưng sau đó sang Hoa Kỳ để sống vì có lẽ một phần ở Hoa Kỳ có nhiều điều kiện để bà phát huy tài năng hơn.

Nhắc đến sự ảnh hưởng của nhạc jazz đối với Murakami thì tôi nghĩ ngay đến quyển The Great Gatsby của F. Scott Fitzgerald vì Murakami nhắc đến quyển này trong “Rừng Na Uy” tác phẩm nổi tiếng của ông. Fitzgerald là nhà văn sống ngay trong thời kỳ vàng son của nhạc jazz. Ông có một số truyện ngắn xuất bản với tựa đề The Jazz Tales bán rất chạy. Bên cạnh cái tên có liên quan đến jazz, tập truyện ngắn này chịu ảnh hưởng bởi jazz như thế nào và đến mức độ nào? Vào đầu cho đến cuối thập niên hai mươi, jazz rất thịnh hành, là một phong trào ảnh hưởng đến thời trang (the flapper) và rượu (bath tube gin).

Chưa viết xong.

Playlist tháng Tám

Tôi lang thang qua nhà các blog bạn, thấy cái playlist này. Tuyệt vời. Trộm phép của chủ blog, kéo về đây để dành làm tài liệu cho cuộc ngâm cứu chủ đề jazz.

Playlist tháng Tám 

Ngồi viết trong tiếng piano khẽ khàng và tiếng kèn thật dịu dàng của Chet Baker trong bài Almost Blue. Một món quà tuyệt vời cho một ngày đầu tháng Tám.

Hôm nay không có jazz

Lẵng hoa bằng gỗ Gỗ khắc thành lẵng chợ lộ thiên
Liên tiếp mấy tuần, tôi đi nghe nhạc jazz vào ngày thứ Năm. Tuần này trời nóng quá tôi lười đi bộ, và hôm ấy tôi ra hơi trễ nên thay vì đến chỗ nghe nhạc tôi ngừng ở khu chợ lộ thiên. Một tuần hai ngày, thứ Ba và thứ Năm, người ta tổ chức chợ lộ thiên. Bán nông phẩm, đồ thủ công mỹ nghệ. Có nhiều gian hàng màu sắc nhưng tôi sợ chụp hình người ta sẽ mắng nên chỉ đứng xa xa mà ngắm. Đây là quảng trường của công ty điện lực, lúc trước có ngân hàng, mỗi lần chụp ảnh là bảo vệ ra đuổi. Sợ làm hại tài sản của công ty.

Tôi thấy một gian hàng bán đồ mỹ nghệ. Gỗ được khắc thành những cái giỏ, tôi gọi là lẵng hoa vì hình dáng của nó, nhưng nó không được để chứa hoa mang hoa. Xếp lại, nó đẹp như một bức tranh gỗ với vân hoa. Mở ra nó biến thành cái giỏ. Tôi nghĩ đến những tính toán trong công nghệ, độ clearance và interference, cái kiên nhẫn của người khắc gỗ.

Viết thêm

Hôm trước, hỏi mình nhạc jazz là gì. Nhiều khi nghe nhạc jazz mà không biết là nhạc jazz. Sáng nay sực nhớ ra có hai bài, mình biết là nhạc jazz, đã đăng lên blog để nghe, nhưng quên nhắc đến. Đó là bài “Nature Boy” và “If I Didn’t Care.”

“Nature Boy” có nhiều người hát. Nat King Cole và sau này Celine Dion. Tác giả là eden ahbez, ông này nhất định viết tên mình bằng chữ lower case. Nhạc sĩ viết tiếng Yiddish Herman Yablokoff kiện ahbez cáo buộc tội đạo nhạc, hai bên thỏa thuận một số tiền bên ngoài tòa án. Ngoài ra có người bảo rằng ahbez mượn đỡ một đoạn nhạc của Antonin Dvorak – Piano Quintet No. 2 in A, Op. 81. Bài này xuất hiện ở nhiều phim The Talented Mr. Ripley và Moulin Rouge.

“If I Didn’t Care” xuất hiện trong phim “Miss Pettigrew Lives for a Day” và “The Shawshank Redemption.”

Còn nhiều nữa nhưng tôi chỉ ghi chú lại đây một chút để dành cho mai mốt.

Jazz in the garden 4

Sở dĩ có mấy cái post jazz là gì, rồi jazz trong phim ảnh và văn học là tại vì tôi đi xem Jazz in the garden hằng tuần. Đây là tuần thứ tư, mới xem hồi thứ Năm vừa qua. Tôi đến trễ, không còn chỗ trong bóng mát. Thấy có chỗ trống ngồi vào thì bà cụ bên cạnh nói, người ta bỏ ghế này vì bị cây cột chống lều, và cái máy khuếch đại âm thanh án ngữ. Bạn đọc tha thứ cho những tấm ảnh này. Tôi nhận ra cái shyness của tôi làm tôi trở nên què quặt nhiều mặt. Tôi không dám đứng ra giữa sân để chụp ảnh như những người chụp ảnh. Ngay cả đứng lên để chụp ảnh tại chỗ tôi cũng thấy ngượng ngùng, có cảm tưởng người ta nhìn mình, nhìn cái búi tóc bạc giấu sau cái mũ, nhìn cái lưng đã bắt đầu có dáng hơi còng.
toàn ban nhạc Cocomama
Đây là ban nhạc Cocomama. Ban nhạc có chín người, nhưng người chơi đàn bass bị che khuất sau các nhạc sĩ, ca sĩ, và cái loa. Tôi nghe tiếng bass đệm và đôi khi độc tấu nhưng không thấy người, ban đầu ngỡ là người chơi piano đệm theo bắt chước tiếng bass. (Tại không rành âm nhạc nên muốn tưởng sao thì tưởng) 🙂
quả bầu làm nhạc cụ
Ban nhạc này được giới thiệu là All female Latin Jazz group. Nửa phần đầu họ trình diễn nhạc Cuba. Sau đó họ hát nhạc của Peru và có bài nhạc tiếng Anh. Có lẽ đây là bản nhạc rất phổ biến nên tôi nghe khán giả phía sau lưng tôi hát theo. Vì là nhạc Cuba và châu Mỹ Latin nên họ có vài loại trống. Ảnh này là quả bầu được dùng làm nhạc cụ. Sau lưng người ca sĩ này là một cặp trống có chiều cao đến bụng. Tôi nghĩ thiếu tiếng trống chắc khó truyền đạt âm nhạc châu Mỹ Latin. Tôi rất yêu tiếng trống trong âm nhạc, cố gắng phân biệt tiếng trống của các quốc gia Ả Rập, nghe thì có thể phân biệt nhưng diễn tả bằng ngôn ngữ thì bất khả.
drummer and percussionist
Đây là hai nữ nghệ sĩ đánh trống. Ban nhạc toàn nữ này mang cho tôi cảm giác rất đặc biệt. Khâm phục họ và họ đáng tự hào. Và nhận ra thế giới ngoại quốc có dành chỗ cho nữ giới. Không được rộng rãi như chỗ của nam giới, nhưng họ cũng tạo ra một chỗ đứng cho họ. Cô gái đánh trống này thật là xinh đẹp, và tôi yêu cái mũ đàn ông của cô.
volunteer dancers
Hôm ấy là một ngày mùa hè đẹp tuyệt vời. Không nóng lắm và có gió hiu hiu. Trời xanh với những cụm mây trắng lười biếng bay. Tôi không muốn trở về chỗ làm. Ngồi nghe nhạc và nghĩ đến những câu thơ.

Dẫu rằng người có phụ tôi.
Thì mây vẫn trắng thì trời vẫn xanh.

Được hai câu thì bí rồi nên tiếp tục nghe nhạc. Tôi yêu nhạc vùng Caribbean và tiếng trống kể từ khi tôi nghe bài Kiss The Girl trong The Little Mermaid. Tiếng trống rộn ràng, rạo rực. Những nhà nghệ sĩ của ban nhạc Cocomama, chơi những bản nhạc nhanh vui theo điệu Salsa nên nhiều người ngứa ngáy đôi chân. Khi họ được khuyến khích ra sân khiêu vũ thì họ ra ngay. Đây là những người khiêu vũ với những bước rất đẹp mắt. Cách họ uốn éo di chuyển chứng tỏ có một thời họ làm chủ sàn nhảy nào đó. Nhìn cái lưng của người phụ nữ áo đen và mái tóc cắt ngắn rất khéo tôi có cảm tưởng nàng là người Á châu. Nhảy đẹp lắm.
một cặp khiêu vũ
Đứng chật sân nhưng chỉ toàn là phụ nữ. Khi ông này lên khiêu vũ với bà này, khán giả vỗ tay um sùm. Sau lưng tôi là một ông cụ. ông hát theo ca sĩ và tiếng đàn, giọng trầm hơi khàn, mỗi lần nghe một đoạn nhạc hay ông kêu lên Ô lê, Ô lê, Ô lê, đôi khi ông “hum” (âm thanh ngậm lại trên môi không phát ra thành tiếng) ông sành âm nhạc lắm a.

Tôi hoàn toàn không biết nhạc lẫn lời. Chỉ ngồi đó nghe âm thanh và giai điệu. Khi họ hát những bản nhạc jazz chậm, tôi đoán lời hát chắc phải não nuột lắm, nhưng âm thanh điệu nhạc vẫn dồn dập rộn rã. Nhạc vẫn vui dù lời hát có buồn. Với âm nhạc, một buổi trưa hè như thế này, dù có bị tình phụ thì trời vẫn xanh, mây vẫn trắng, mình vẫn sống nhăn. Tình phụ, đó là sự tưởng tượng của một người ôm mộng làm dzăng sĩ. Chứ tình phụ xảy ra hồi mấy chục năm về trước kia.

Jazz trong phim ảnh 2

Hôm qua tôi thắc mắc không biết phim The Great Gatsby, version 1974, hai diễn viên chính là Redford và Farrow, có phản ánh đúng với nhạc jazz vào thập niên 1920 hay không. Thắc mắc thì tự đi tìm câu trả lời.

Những năm 1920, Hoa Kỳ đang hồi phục sau thế chiến thứ nhất chấm dứt thời kỳ đại khủng hoảng kinh tế (Great Depression). Đó là thời kỳ jazz age, nhạc jazz đang hồi hưng thịnh, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở Anh và Pháp. Không những jazz mà văn học thời ấy cũng huy hoàng. Cuộc sống ở Hoa Kỳ đắt đỏ hơn ở Pháp. Người da đen ở Hoa Kỳ thời bấy giờ vẫn còn bị kỳ thị chủng tộc nên các hoạt động nghệ thuật vẫn còn gò bó với các nghệ sĩ trình diễn. Rất nhiều văn nghệ sĩ Hoa Kỳ sang sống ở Pháp như Ernest Hemingway, Francis Scott Fitzgerald, Gertrude Stein, Josephine Baker, … Josephine Baker là nữ nghệ sĩ trình diễn, bộ môn hát và khiêu vũ. Cảm thấy bị gò bó qua phong cách trình diễn, và không được quí trọng vì bà là người da đen, bà sang Paris sống. Nơi đây tên tuổi của bà trở nên lẫy lừng khắp thế giới. Cole Porter là nhạc sĩ jazz, đồng tính luyến ái cũng sống ở Paris. Có lẽ còn nhiều nhạc sĩ jazz nữa nhưng tôi không biết. Tất cả những tên của các văn nghệ sĩ tôi vừa nhắc qua đều được nhắc đến trong phim Midnight in Paris.

Chiều qua tôi đến thư viện mượn phim The Great Gatsby năm 1974. Thêm một chút thất vọng vì phim này bị chê là không tôn trọng đúng mức tinh thần nhạc jazz trong thời đại vàng của nhạc này. Nếu tôi có thất vọng vì không tìm thấy nhạc jazz của thập niên 20 trong hai phim The Great Gatsby thì tôi được đền bù trong phim Midnight in Paris. Toàn cái soundtrack của Midnight in Paris là các nhạc phẩm được trình bày bởi các nhạc sĩ jazz (người da đen) nổi tiếng như Duke Ellington, Billy Strayhorn, … Phim này làm tôi hầu như có cảm tình với Woody Allen trở lại, một phần nào. Phim của Allen có nét lãng mạn, nhưng tôi không ưa cách đối thoại “lắp bắp” của ông.

Có hai phim tôi đã xem, đưa cuộc đời của các nhạc sĩ jazz vào phim, “Young Man With A Horn” và “Paris Blues.” Cả hai phim đều nói về nhạc sĩ Jazz người da trắng, nhưng phim Paris Blues có Sidney Poiter là nhạc sĩ người da đen. Young Man With A Horn do Kirk Douglas đóng vai chính, phim dựa trên cuộc đời của Bix Beiderbecke. Phim ra đời năm 1950 có lẽ vào thời kỳ ấy người ta không dãm nghĩ đến việc làm phim về nhạc sĩ da đen. Mãi đến năm 1961 khi phim Paris Blues ra đời chúng ta mới thấy sự xuất hiện của diễn viên Sidney Poiter đồng thủ vai chính với Paul Newman. Trong phim Paris Blues tôi thấy có Louis Amstrong và một vài nhạc sĩ người da đen khác. Sound track của Paris Blues được Duke Ellington đảm nhiệm kiêm trình tấu.

Tạm ngừng để đi làm.

Jazz trong phim ảnh 1

Hôm qua tuyên bố sẽ viết về Jazz trong văn học và phim ảnh. Sáng nay tự hỏi mình biết gì về chủ đề này mà tuyên bố như vậy. O Gió chắc biết tật của tôi. Để bắt buộc mình tập trung về một chủ đề nào đó, tôi thường tuyên bố trước, rồi bắt mình phải giữ lời hứa. Cũng có một đôi lần thất hứa, nhưng thường hễ đã hứa thì tôi cố gắng làm với tất cả những giới hạn và khiếm khuyết của mình.

Hôm qua tôi nói nhạc Jazz phát xuất từ người da đen nghèo, nhạc của họ buồn. Sáng nay nói thêm. Nhạc jazz ban đầu phát xuất từ miền Bắc châu Phi Congo và Savannah khu vực lòng chảo của rừng nhiệt đới. Nhạc cụ là những khúc gỗ được biến thành trống. Người Bắc Phi đã từng xâm lấn Spain và từ đó mang tiếng kèn (rồi sau nữa là guitar, dương cầm và vĩ cầm) vào nhạc jazz. Nhạc jazz ở Hoa Kỳ (nhạc jazz có khắp nơi trên thế giới, đặc biệt lớn mạnh ở Pháp) biến chuyển theo thời gian, từ ban nhạc nhà nghèo với vài ba cây kèn và guitar, đến giàn nhạc đại hòa tấu, vài chục cây kèn, dương cầm vĩ cầm, có nhạc sĩ biểu diễn solo, vào những đại hí viện. Tôi không muốn gọi đây là nhạc sang trọng nhưng rõ ràng là muốn thưởng thức thì phải có tiền nhiều. Tôi vẫn tin (đầy vẻ ngây thơ ngớ ngẩn) là, người biểu diễn, người nghe, và nơi biểu diễn, có thể nghèo nàn hay giàu có nhưng tự âm nhạc thì không dành riêng cho ai cả. Âm nhạc giàu có ở âm thanh và giai điệu và miễn là đừng điếc thì ai cũng có thể nghe và thưởng thức nó với chính cảm quan của mình. (Ngay cả điếc như Beethoven mà còn viết được bản dương cầm bất hủ For Elise). Nhạc jazz có khi chậm buồn có khi nhanh vui (swing) có khi ồn ào cuồng loạn (rock’ n ‘ roll). Mình thích hay không thích một giai điệu có thể bắt nguồn từ tâm thức, kinh nghiệm, hay thói quen, nhiều hơn là vì kinh tế.

Khi nghĩ đến jazz trong phim ảnh, tôi không nhớ ra phim nào ngay lập tức, ngoại trừ The Great Gatsby. F. Scott Fitzgerald là nhà văn của thời kỳ nhạc jazz hưng thịnh, do đó có lẽ nhạc jazz sẽ xuất hiện tràn đầy trong phim. Tôi xem lại phim này, mới làm năm 2013 của đạo diễn Baz Luhrmann. Thú thật khi xem phim này lần đầu tôi đã có chút thất vọng. Tôi thích cái hào nhoáng giàu có, thích màu sắc của thời trang, thích cái mới mẻ của phim nhưng tôi cũng chính những khía cạnh này mà tôi không thích phim The Great Gatsby của Luhrmann. Phải công nhận, khó mà làm vừa lòng khán giả xem phim này, bởi vì họ đã được xem quá nhiều phim bản (1926, 1949, 1955, 1974, 1999 opera, 2000 phim truyền hình) cũng như đã đọc quyển tiểu thuyết này từ năm xửa năm xưa. Xem lại phim này với ý định tìm hiểu nhạc jazz trong phim, cốt truyện xảy ra năm 1922, quyển tiểu thuyết được xuất bản năm 1925, thế nhạc jazz trong phim có thể hiện nhạc jazz của thời đại ấy không? Tôi thất vọng thêm lần nữa. Luhrmann đưa hip hop, rap vào phim, đây có thể là biến thể của jazz nhưng vài chục năm sau. Tôi sẽ tìm xem những phim bản trước đó và sẽ trở lại với bài blog này. Tôi đã xem phim năm 1974 Robert Redford đóng, nhưng không còn nhớ chi tiết đặc biệt là soundtrack của phim.

Thôi để hôm khác viết tiếp. Đang viết ngon trớn nhưng tôi phải chuẩn bị đi làm.

Nhạc Jazz là gì?

Mấy năm trước, tôi đăng bản nhạc hòa tấu cổ điển, một bạn đọc đi ngang, đã lên tiếng. Theo ý bạn loại nhạc này sang trọng, là nhạc nhà giàu, thời thượng. Bạn ấy chỉ nghe và thích nhạc cổ điển dân tộc Việt Nam, những điệu hò, điệu lý, đàn bầu, đàn tranh. Tôi cũng thích nhạc này nhưng không luôn tìm được để nghe.

Là một người khá nhạy cảm, hay quan sát nội tâm, tôi tự hỏi có phải mình nghe bằng chính cái thành kiến của mình không. Tôi có cảm tưởng bạn nghĩ tôi là người vọng ngoại, tôn thờ văn hóa nước ngoài, chỉ là một thứ học làm sang.

Mới đây khi tôi kể chuyện đi xem nhạc jazz, có bạn cho rằng cần phải có chút tinh tế và nghệ sĩ tính để thưởng thức nhạc jazz. Tôi lại cẩn thận nhắc mình, đừng nghe bằng thành kiến của mình. Tôi không (luôn luôn) vọng ngoại, không học làm sang, không (tuyệt đối) tôn thờ văn hóa nước ngoài. Tôi đang từng ngày và từng bước, tìm hiểu cuộc sống chung quanh mình, mở cửa tâm hồn để tiếp nhận văn học nghệ thuật nơi tôi đang sống. Mấy mươi năm quanh quẩn với cơm áo gạo tiền, bây giờ tôi mới có dịp để ý đến nền văn hóa hiện diện chung quanh tôi.

Jazz có phải là loại nhạc dành cho những người giàu có sang trọng, hay đặc biệt chỉ dành cho những nhà nghệ sĩ tinh túy không? Tôi muốn kêu to rằng, không! Nhạc jazz phát xuất từ người Mỹ gốc châu Phi làm sao là nhạc nhà giàu cho được.

Người châu Phi, bị bắt sang châu Âu và châu Mỹ làm nô lệ, đời sống của họ đầy những bất hạnh, nghèo khó, đau khổ, và tối tăm. Nhạc của họ là những bài hát nói về những cuộc tình tan vỡ, bội bạc, và họ nhận chìm đau thương trong men rượu. Nhạc cụ của họ thường chỉ có một cây đàn guitar hay một cái kèn đồng. Ngay cả sau khi bãi bỏ chế độ nô lệ cuộc sống của những người nghệ sĩ da đen vẫn nghèo khó rày đây mai đó, từ hộp đêm này sang hộp đêm khác. Dăm ba người nghệ sĩ, vài ba cây kèn đồng, giàn trống về sau họ có thêm piano gia nhập. Nhạc jazz làm tôi nghĩ ngay đến những quán rượu về đêm, khói thuốc mù mịt, tiếng kèn khàn khàn, giọng ca sĩ nhừa nhựa mụ mị. Đó là những hình ảnh tôi nhìn thấy trong phim chứ nhạc jazz trong phòng trà hộp đêm có từ thời tôi chưa ra đời và từ khi sống ở Hoa Kỳ tôi chưa hề biết cái hộp đêm nó ra làm sao. Tôi đoán bạn cũng như tôi, nhiều khi nghe nhạc jazz mà không biết đó là nhạc jazz.

Nhạc jazz là gì? Tôi nghĩ nghe một bản nhạc tôi có thể nói một cách do dự, bản này, cách trình tấu này nghe giống như nhạc jazz. Tôi không chắc là nếu bạn cho tôi nghe một bản nhạc lạ, tôi có thể nhận ra đó có phải là nhạc jazz hay không. Nhận biết một bản nhạc jazz, với tôi không dễ, nhưng vẫn dễ dàng hơn định nghĩa nhạc jazz. Ngay cả đối với những người chuyên nghiệp, định nghĩa nhạc jazz là gì, không phải dễ dàng.

Để tìm hiểu nhạc jazz tôi tham khảo quyển “Why Jazz? – A Concise Guide” của Kevin Whitehead. Đây là một quyển sách mỏng, dễ hiểu, bởi vì tác giả không viết theo lối hàn lâm. Ông đặt ra những câu hỏi ngắn, và câu trả lời cũng ngắn gọn, đơn giản, để thỏa mãn tò mò của độc giả (không chuyên về nhạc) như tôi. Sau đây là phần tôi trích dịch trong quyển sách. Tuy ông viết rất dễ hiểu, nhưng tôi thấy khó dịch, vì tôi không có đủ từ Việt về âm nhạc. Tôi chỉ dịch theo cách tôi hiểu, và dịch thoáng, thêm chữ hay bớt chữ để câu văn viết dễ đọc và xuôi tai.

Trang 5. Jazz là gì?

Jazz có nhiều loại, nhịp điệu khác nhau, nên khó có một định nghĩa đơn giản để mọi người đều đồng ý. Người sành điệu có thể không chấp nhận một số nhạc sĩ, bảo rằng những người này không phải là nhạc sĩ jazz vì loại nhạc họ trình diễn không phải là nhạc jazz. Tuy nhiên để bắt đầu cuộc tìm hiểu chúng ta có thể tạm chấp nhận rằng: jazz là một loại nhạc có nhịp điệu trái ngược nhau, chú trọng việc phô trương kỹ thuật trình diễn cá nhân, thường là do sự tự cải biến trong lúc trình diễn. Jazz là một hỗn hợp gồm nhiều khía cạnh của nhạc dân ca và nhạc hòa tấu nghệ thuật. Đặc tính (cái hay cái đẹp) của jazz là bộc lộ rõ rệt cá tính của người Mỹ da đen, bất kỳ người trình diễn là ai hay trình diễn ở đâu.  Đối với nhạc sĩ jazz, loại nhạc cụ họ sử dụng không quan trọng bằng cách họ sử dụng nhạc cụ: tác phẩm được cải biến bằng cách “bóp méo” (một cách nghệ thuật) nhịp điệu (rhythms), âm điệu (melodies), ngay cả hình thức (forms) của bản nhạc.

Trang 1. Tại sao nghe nhạc jazz?

Vì nhạc jazz thú vị. Sau đó mới đến các lý do khác. Jazz hấp dẫn vì loại nhạc này được xem là một cách thử thách tài năng của nhạc sĩ và cũng là một khía cạnh văn hóa, tiếng nói của người Mỹ gốc Phi châu với thế giới. Nhưng tất cả những điều này chẳng có nghĩa lý gì nếu nhạc jazz nghe không thú vị. Jazz là một thế giới âm nhạc riêng biệt, bao gồm loại nhạc jazz truyền thống vùng New Orleans và nhạc jazz tự do không theo thể loại nhất định, nhạc swing cuồn cuộn của Kansas City và loại bebop dồn dập, nhạc jazz được trình diễn bằng đàn guitar điện âm thanh dòn dã, những đoạn nhạc được viết theo khuynh hướng hậu hiện đại, loại nhạc jazz quí phái, quyến rũ dục vọng, khôi hài, loại nhạc thưởng thức bằng trí óc và nhạc để nhảy múa, nhạc blues, nhạc Viễn Tây (country music), rock’n’roll. Tất cả đều gọi chung là jazz.

Trang 2. Tôi có cần phải thích tất cả loại nhạc jazz không? Tôi có cần phải biết lịch sử nhạc jazz để thưởng thức nhạc không?

Giới hâm mộ nhạc phản ứng theo bản năng. Họ nghe nhịp điệu hòa quyện với âm thanh của nhạc cụ hoặc là giọng hát của ca sĩ và họ thích ngay lập tức. Đối với một số thính giả, chỉ cần biết một loại nhạc jazz là đủ rồi. Họ có thể nghĩ là chỉ có một loại jazz đó là quan trọng thôi.

Nhưng jazz lại quan trọng về sự thay đổi: cách mà nhạc sĩ “riff”[1], ý tưởng, hoặc phong cách trình diễn đã biến bản nhạc gốc thành một bản nhạc khác. Với những người nghe jazz kinh nghiệm, họ biết những chỗ hay, hoặc lạ, đặc biệt đến độ buột miệng kêu à há, khi họ nhận ra những âm thanh thay đổi, mới lạ và độc đáo, từ bản nhạc cũ. Để biết nhận ra những cái hay đó, biết về lịch sử âm nhạc có thể giúp ích – một vài khái niệm về dáng dấp âm nhạc.

***Đặt cục gạch làm dấu ở đây – Ngày mai sẽ viết jazz trong phim ảnh và văn học.


[1] Cách nhạc sĩ trình diễn, thường là một chuỗi nốt nhạc được lập lại với một vài nốt nhạc được biến đổi.

Jazz in the garden 2

Chương trình nhạc jazz này tôi xem từ hồi tuần trước, cũng vào ngày thứ Năm. Người trình diễn buổi nhạc hôm ấy là Akiko. Tấm ảnh đầu tiên là nàng. Họ Tsugura. Vì không biết nhiều về nhạc jazz tôi đo lường tài năng của nàng qua mức độ phấn khích của khán giả. Nhìn những cái gật đầu, đánh nhịp, lắc lư, vỗ tay vào những lúc nàng riff hoặc improvise. Tôi đoán sự sành điệu của khán giả qua cách ăn mặc rất jazzy của họ.

Vì trời mưa, nên buổi trình diễn được dời vào bên trong thư viện. Bức ảnh chụp khán giả mờ, một phần vì tôi để iso thấp quá, quên chỉnh máy trước khi chụp, một phần vì khán giả lắc lư kích động quá. Akiko hay nói đùa, nhưng giọng của nàng có accent nặng quá nhiều khi tôi không hiểu nàng nói gì, thấy người ta cười khi nàng cười có cái răng khểnh rất duyên.

Xem nhạc xong tôi ra ngoài chụp mấy tấm ảnh ở khu vườn sau thư viện. Những cái cửa vườn hoang phế luôn có cái gì đó mời gọi hấp dẫn tôi. Cũng như những căn cottage, tường đá phủ đầy dây ivy (trường xuân).

Jazz in the garden 1

desktop-jazz_0  
Ảnh này lấy từ website của mạng Thư viện Newark. Mấy tấm ảnh dưới là của Tám.
Jazz in the garden
  005  007
Mấy tấm ảnh này chụp từ hồi thứ Năm tuần trước. Mùa hè, thành phố tôi làm việc trở nên sống động, tưng bừng náo nhiệt. Thứ Năm vừa qua là ngày mở đầu chương trình nhạc Jazz trình diễn trong khu vườn nhỏ phía sau thư viện chính của thành phố Newark. Tôi ngồi ở khoảng giữa của hàng ghế khán giả. Không đông khách lắm, độ 150 người, vẫn còn nhiều chỗ trống, có lẽ khu vườn này có đủ chỗ cho ba trăm khán giả.

Hôm ấy là buổi biểu diễn của Gary Bartz, ông hát và thổi kèn đồng saxophone. Cùng trình diễn với ông là một dương cầm thủ, một đại hồ cầm (chẳng biết gọi là gì, cello hay bass?), và giàn trống. Ở phía tay trái có một người điều khiển một giàn nhạc bằng computer (tôi đoán thế vì không rành kỹ thuật của âm nhạc). Khán giả gồm nhiều nhóm, khoảng sáu mươi tuổi hay hơn, đã về hưu, họ ăn mặc khá thoải mái. Nhóm trẻ chừng hơn hai mươi là những người làm việc chung quanh lấy giờ ăn trưa đến nghe nhạc, ăn mặc đẹp, có cả com lê dù trời mùa hè khá nóng. Có những người có vẻ như từ nơi xa đến, New York chẳng hạn. Đa số là người địa phương. Tôi có gặp lại một đồng nghiệp cũ đã về hưu ở nơi này.

Tôi không rành nhạc jazz, chỉ nghe chút đỉnh, biết tên một vài nhạc sĩ nổi tiếng. Hễ có dịp là tôi muốn được đắm mình vào văn hóa nhạc jazz nhạc blue. Loại nhạc này rất dễ nghe, nhiều bài hát Việt được biểu diễn theo lối jazz. Đừng kể Hạ Trắng và Đêm Đông, những bài như Ảo Ảnh của Y Vân, hay Kiếp Nghèo, Quán Nửa Khuya biểu diễn theo lối jazz nghe nhức nhối lắm.

Vé vào cửa để gây quỹ giúp Thư Viện Newark chỉ có ba tì. Buổi trình diễn bắt đầu thừ 12:15 pm và kết thúc lúc 1:45 pm. Tôi chỉ có thể nghe được nửa giờ đồng hồ là phải trở lại chỗ làm. Thứ Năm này tôi sẽ được nghe đàn organ.