Đom đóm

Nghe nói ở bên mình bây giờ ít khi nhìn thấy đom đóm, như thể chúng đã bị tuyệt chủng. Người ta tổ chức những cuộc du lịch sang Mã Lai để được xem đom đóm. Năm nay chỗ tôi ở không nhìn thấy đom đóm nhiều như năm trước hay năm trước nữa. Không nhiều nhưng vẫn xuất hiện. Bao giờ cũng loáng thoáng dưới bụi trúc hay đâu đó phía sau rừng, bên cạnh mấy cây dâm bụt hoa tím. Có thể vì tôi đi ngủ sớm nên không nhìn ra ngoài nhà trong đêm. Có thể vì tôi không thức giấc nửa đêm. Cũng có thể, đom đóm như những nàng tiên bé, đi chơi chỗ khác. Không hiểu sao, đom đóm luôn mang cảm giác vui nhẹ nhàng, có chút gì lãng mạn trong không khí. Làm người ta nghĩ đến chuyện thần tiên. “Đêm thơm như một dòng sữa,” hay “đêm vỗ về nuôi nấng, đêm trao ngọt ngào hương phấn.” Ngay cả chữ rêu cũng gợi lên một cảm giác đẹp, êm ái. Làm tôi nhớ câu thơ “Như chân chim muôn thuở. In mãi bậc thềm rêu.” (Thơ Phạm Thiên Thư.)

Tôi đọc tập truyện ngắn “Beauty and Sadness” của Yasunari Kawabata, tiếng là truyện ngắn, nhưng tất cả những truyện ngắn này có liên hệ với nhau, tạo thành một truyện vừa. Phần trích đoạn được trích từ truyện ngắn có tên “A Stone Garden.” Otoko, một nữ họa sĩ mai danh ẩn tích, và Keiko một cô đồ đệ trẻ và rất đẹp. Otoko không trẻ bằng nhưng có lẽ cũng là người đẹp. Hai người đến viếng một vườn trong một chùa thiền nổi tiếng ở Kyoto, Saiho-ji, còn gọi là vườn rêu (Moss Garden). Vườn này vốn là vườn được thiết kế toàn bằng đá, nhưng khí hậu ẩm làm rêu mọc lên đá. Cả vườn được bao trùm bằng một lớp rêu mịn.

Keiko mang tất cả những họa phẩm của nàng đến cho một họa sĩ tài danh, Oki, xem. Câu chuyện khai mở dần. Keiko và Otoko là đôi tình nhân. Keiko ngủ với ông họa sĩ (chừng hơn 50 tuổi) với ý muốn trả thù cho Otoko vì Otoko đã từng là người tình của ông Oki (ông có vợ). Keiko tỏ ý muốn mang thai với Oki khi Otoko thổ lộ là bà có con với Oki. Otoko tát Keiko. Cô gái trẻ giận dỗi và sau đó là đoạn văn này. Tôi dịch bạn đọc chơi vì nó có liên quan đến đom đóm.

“Keiko-” Otoko bước ra hàng hiên và đá mạnh cái lồng chứa đom đóm[i] văng vào trong vườn, dù chân của nàng không mang giày.

Tất cả đom đóm trong lồng dường như sáng ngời lên ngay lập tức. Một dòng ánh sáng trắng có nhuốm màu xanh chảy ra khỏi lồng rồi đáp nhẹ nhàng lên một vạt đất đóng rêu. Bầu trời đầy mây, và hơi ẩm của hoàng hôn bắt đầu lan tỏa nhẹ nhàng trong vườn làm cảnh vật trở nên mù mờ lunh linh, nhưng ngày của mùa hạ thường rất dài nên vẫn còn ánh sáng. Chừng như đàn đom đóm không thể nào chiếu sáng rực rỡ như thế, hay có lẽ, dòng ánh sáng chảy ra khỏi cái lồng chỉ là sự tưởng tượng của nàng, hoặc, dòng ánh sáng ấy chính là tình cảm trong lòng nàng kết tụ thành. Nàng đứng sững sờ và nhìn không chớp cái lồng đom đóm đang nằm nghiêng trên mặt thảm rêu.

Trích truyện ngắn “A Stone Garden” (Vườn Đá) trong tập “Beauty and Sadness” (Nhan sắc và Nỗi Buồn) của Yasunari Kawabata.

[i] Ở Nhật Bản, thời của Yasunari Kawabata (1899 – 1972), trong  vườn có lồng bắt chứa đom đóm. Trong truyện ngắn này, vườn ở đây là một công viên lớn thuộc về phần chùa Saihoji còn gọi là Moss Garden. Tôi không biết bây giờ có còn lồng chứa đom đóm hay không. Tôi cũng không biết lồng chứa đom đóm chỉ để trang trí hay có nhiệm vụ gì khác hay không, thí dụ như thay thế đèn (?) hay người ta không thích đom đóm bay khắp nơi trong vườn, trong nhà.

Đôi Chim Bạch Yến

Tác giả: Yasunari Kawabata

Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà

Thưa Bà:

Tôi xin lỗi đã thất hứa và viết thư cho Bà, chỉ một lần này thôi.

Tôi không thể tiếp tục nuôi giữ mấy con chim bạch yến tôi nhận của bà từ năm ngoái. Vợ tôi là người săn sóc mấy con chim này. Tôi chỉ ngắm chúng – và nghĩ đến Bà khi thấy mấy con chim này.

Có phải Bà là người đã nói, “Anh có vợ, và em cũng có chồng. Thôi ta đừng yêu nhau nữa. Phải chi anh đừng có vợ. Em tặng anh mấy con chim bạch yến này là để anh nhớ đến em. Anh nhìn chúng đi. Đôi bạch yến này trông như là vợ với chồng, nhưng thật ra chủ tiệm chỉ bắt bừa một con trống và một con mái rồi nhốt chúng vào chung một lồng. Tự chúng chẳng hề quen biết nhau. Thôi thì cứ nhìn chúng mà nhớ đến em. Nghĩ ra cũng kỳ quái khi đem tặng thú vật sống làm quà, nhưng kỷ niệm của chúng ta cũng đang sống đấy thôi. Rồi một ngày nào đó, đôi bạch yến này sẽ chết. Và, khi ấy kỷ niệm của chúng ta cũng phải chết theo, xin hãy để nó chết đi.”

Giờ đây, đôi bạch yến nhìn có vẻ như sắp chết. Người săn sóc chúng đã mất rồi. Một họa sĩ, bất cẩn và nghèo túng như tôi, không thể nuôi những con chim yếu ớt này. Nói thẳng ra, vợ tôi là người chăm sóc chúng, từ khi nàng qua đời, tôi không biết đôi chim này có chết theo nàng hay không. Và nếu đôi chim này chết, thưa Bà, có phải vợ tôi là người mang đến những kỷ niệm về bà hay không?

Tôi nghĩ đến thả đôi chim này, nhưng, từ khi vợ tôi mất, đôi cánh của cặp chim dường như trở nên yếu ớt. Thêm vào đó, đôi chim này rất xa lạ với bầu trời. Chúng không có người thân hay bạn bè, trong thành phố này hay trong khu rừng lân cận, để chúng có thể nhập đàn. Và nếu một con chim tách ra bay riêng, cả hai cũng sẽ chết một cách lẻ loi. Nhưng mà, chính Bà đã nói rằng, người chủ tiệm bán chim chỉ bắt bừa hai con chim một trống một mái rồi nhốt vào chung một chuồng.

Tôi không muốn đem bán chúng cho tiệm bán chim, vì Bà đã cho tôi mấy con chim này. Tôi cũng không muốn trả lại cho Bà, bởi vì vợ tôi là người đã nuôi mấy con chim. Thêm vào đó, mấy con chim này – có lẽ Bà đã quên bẵng chúng rồi – sẽ gây trở ngại cho Bà rất nhiều.

Tôi sẽ lập lại. Nhờ có vợ tôi mà đôi chim này còn sống đến bây giờ – làm kỷ vật gợi tôi nhớ đến Bà. Vì thế, thưa Bà, tôi muốn đôi chim này đi theo vợ tôi về cõi chết. Giữ cho kỷ niệm của Bà còn sống trong tôi không phải chỉ là một việc vợ tôi đã làm. Làm thế nào mà tôi có thể yêu một người đàn bà như Bà chứ? Không phải bởi vì vợ tôi đã ở với tôi sao? Vợ tôi đã giúp tôi quên hết những nỗi đau đớn trong đời. Nàng đã từ chối không nhìn thấy phân nửa phần đời của tôi. Nếu nàng không làm như thế, tôi chắc chắn là sẽ quay nhìn hướng khác, hoặc nhìn xuống chân, trước một người phụ nữ như Bà.

Thưa Bà, chắc là không sao chứ, nếu tôi giết đôi chim bạch yến này và chôn chúng vào cùng huyệt mộ với vợ tôi, phải không?

Trích trong tập truyện ngắn The Palm-of-Hands của Yasunari Kawabata.

Về Tuyết

Trích trong tác phẩm “Snow” (Tuyết) của Orhan Pamuk. Trang 3.

The silence of snow, thought the man sitting just behind the bus driver. If this were the beginning of a poem, he would have called the thing he felt inside him the silence of snow.

Sự yên lặng của tuyết, người đàn ông ngồi phía sau anh tài xế xe buýt thầm nghĩ. Nếu đây là lúc khởi đầu của một bài thơ, anh sẽ gọi cái anh đang cảm thấy là sự yên lặng của tuyết.

@ @ @

Trích trong “Snow Country” (Xứ Tuyết) của Yasunari Kawabata. Trang 48.

Shimamura glanced up at her, and immediately lowered his head. The white in the depths of the mirror was the snow, and floating in the middle of it were the woman’s bright red cheeks. There was an indescribably fresh beauty in the contrast.

Was the sun already up? The brightness of the snow was more intense, it seemed to be burning icily. Against it, the woman’s hair became a clearer black, touched with a purple sheen.

Shimamura liếc nhìn nàng, và ngay tức khắc cúi đầu xuống. Cái màu trắng nằm sâu trong tấm gương là tuyết, và trôi bềnh bồng ở giữa đám tuyết ấy là màu má đỏ tươi của nàng. Trong cái tương phản ấy có nét đẹp thật tươi tắn không thể diễn tả được.

Mặt trời đã lên rồi phải không? Tuyết càng lúc càng trở nên chói chang hơn, đến độ dường như nó đốt cháy mọi thứ bằng cái băng giá của nó. Ngược lại với màu tuyết, mái tóc của người đàn bà càng đen rõ rệt hơn, óng ánh một màu tím sẫm phớt bên trên làn tóc.

@ @ @

Trích trong “The Kite Runner” (Người Đua Diều) của Khaled Hosseini. Trang 48 và 49.

Winter

Here is what I do on the first day of snowfall every year: I step out of the house early in the morning, still in my pajamas, hugging my arms against the chill. I find the driveway, my father’s car, the walls, the trees, the rooftops, and the hills buried under a foot of snow. I smile. The sky is seamless and blue, the snow is so white my eyes burn. I shovel a handful of the fresh snow into my mouth, listen to the muffled stillness broken only by the cawing of crows. I walked down the front steps, barefoot, and call for Hassan to come out and see.

[…]

I love wintertime in Kabul. I loved it for the soft pattering of snow against my window at night, for the way fresh snow crunched under my black rubber boots, for the warmth of the cast-iron stove as the wind screeched through the yards, the streets. But mostly because, as the trees froze and ice sheathed the roads, the chill between Baba and me thawed a little. And the reason for that was the kites. Baba and I lived in the same house, but in different spheres of existence. Kites were the one paper thin slice of intersection between those spheres.

Mùa Đông

Đây là những điều tôi làm trong ngày tuyết rơi đầu tiên hằng năm. Tôi ra khỏi nhà lúc sáng sớm, vẫn còn trong bộ đồ ngủ, khoanh tay chống lạnh. Tôi tìm con đường xe chạy vào nhà, xe của bố, mấy cái vách tường, hàng cây, nóc nhà, và những ngọn đồi bị chôn vùi dưới cả thước tuyết. Tôi mỉm cười. Bầu trời xanh bất tận, tuyết trắng đến nhức cả mắt. Tôi vốc một nắm tuyết cho vào mồm, lắng nghe sự tĩnh mịch của tuyết bị phá tan bởi tiếng quạ kêu. Tôi bước xuống thềm, đi chân không, và gọi Hassan thức dậy ra đây mà xem.

[…]

Tôi yêu mùa đông ở Kabul. Tôi yêu nó vì tiếng tuyết vỗ mềm mại vào cửa sổ ban đêm, vì tiếng tuyết mới rơi vỡ giòn dưới gót cao su của đôi ủng, vì hơi ấm của lò nướng bằng sắt khi gió rít qua sân qua đường phố. Nhưng chính yếu là vì, khi cây cối đông cứng và băng giá che lấp mặt đường, sự lạnh lẽo giữa bố và tôi dường như tan chảy đi một chút. Lý do cho sự tan chảy này là bởi vì những con diều. Bố và tôi sống trong cùng một nhà nhưng hiện diện ở hai quả cầu khác nhau. Mấy con diều là sự giao hiệp mỏng manh như tờ giấy giữa hai quả cầu này.

@ @ @

Thơ Basho – On Love and Barley bản dịch sang tiếng Anh của Lucien Stryk.

Snowy morning
One crow
after another

Buổi sáng đầy tuyết
Tiếng quạ
Triền miên

(trang 128)

come, let’s go
snow-viewing
till we’re buried

Đến đây, hãy cùng nhau
ngắm tuyết rơi
cho đến khi bị tuyết chôn vùi

(trang 133)

Awaiting snow.
poets in their cups
see lightning flash

chờ tuyết rơi
thi sĩ nhìn trong chén
thấy chớp lóe

(trang 155)

Tuyết trắng trên cành vọng trời xanh