Giáng Sinh

Giáng Sinh

Tác giả: Vladimir Nabokov

Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà.

Truyện Giáng Sinh đăng ở Văn Chương Việt năm 2011.

Sau khi đi bộ từ trong làng trở về trang viện băng ngang cánh đồng tuyết sáng lờ mờ, Sleptsov ngồi vào trong góc nhà, trên cái ghế bọc nhung ông không nhớ đã bao giờ dùng đến nó. Cũng giống như những chuyện chúng ta thường thấy sau một cơn đại họa. Không phải anh em mà lại là một người quen sơ, ông láng giềng ở nông thôn bạn chẳng mấy khi để ý đến lúc bình thường bạn chẳng buồn trò chuyện đến, lại chính là người an ủi bạn, rất khéo léo và hoàn toàn dịu dàng, nhặt hộ bạn cái mũ bạn đánh rơi sau khi tang lễ chấm dứt lúc bạn đang bị choáng váng trong nỗi đau khổ, răng bạn đang run lập cập, và mắt bạn đang mờ vì nước mắt. Người ta cũng có thể nói như thế về đồ vật. Bất cứ căn phòng nào, ngay cả những căn phòng ấm áp thân mật nhất và nhỏ đến không thể nào nhỏ hơn, hay trong cái chái nhà ít khi được sử dụng của một trang viện đồ sộ ở nông thôn, cũng có một góc không hề có người lui tới. Và đó là cái góc nhà Sleptsov đang ngồi.

Chái nhà này nối liền với phần chính của ngôi nhà dùng để nghỉ hè bằng một hành lang dài và hẹp bằng gỗ lúc này đang bị cơn tuyết miền Bắc Nga lấp đầy. Không cần thiết phải đánh thức hay sưởi ấm nó; chủ nhân của ngôi trang viện đến từ Petersburg ở chỉ đôi ba ngày và chỉ cần dùng phần nối liền của ngôi nhà, chỗ này đơn giản chỉ cần nhóm cái bếp bằng sứ Hòa Lan.

Chủ nhân của trang viện ngồi trong cái góc nhà vắng vẻ, trên ghế bọc nhung, như thể ông đang ngồi chờ trong phòng mạch của bác sĩ. Căn phòng trôi nổi trong bóng tối, và màu xanh thẫm của hoàng hôn thấm qua cụm lông tơ trong như màu pha lê của lớp sương giá đọng trên khung kính cửa sổ. Ivan, ông giúp việc beo béo và ít nói, mới cạo sạch bộ ria mép nên trông rất giống người bố của ông ta; ông ấy trước là quản gia và đã qua đời. Ivan mang vào cây đèn dầu hỏa, đã được lau chùi sạch sẽ và sáng rực. Ông đặt đèn lên cái bàn nhỏ và, rất nhẹ nhàng, lấy cái chụp đèn lụa màu hồng chắn chung quanh đèn. Trong một thoáng cái gương nghiêng phản chiếu ánh sáng lên lỗ tai và mái tóc bạc cắt ngắn của ông. Xong, ông thối lui và khép cánh cửa tạo thành tiếng kẽo kẹt nho nhỏ.

Sleptsov nhấc bàn tay ra khỏi đầu gối, chậm chạp quan sát. Một giọt nến đã dính và đông cứng lại ở khoảng da mỏng giữa hai ngón tay. Ông xòe các ngón tay và lớp vảy mỏng màu trắng bị vỡ tan.

*

Buổi sáng, sau một đêm đầy những giấc mơ vụn vằn vô nghĩa hoàn toàn chẳng liên quan đến nỗi buồn của ông, khi Sleptsov bước ra ngoài hàng hiên lạnh giá, nền nhà kêu răng rắc như tiếng pháo nổ rộn rã dưới chân ông, và phản chiếu của các ô kính cửa sổ đầy màu sắc kết hợp lại thành những hình thoi đẹp tuyệt trần chiếu lên trên mấy cái ghế trắng không nệm đặt bên cạnh cửa sổ. Thoạt tiên lớp cửa bên ngoài hơi khó đẩy, rồi thì nó chịu mở ra với tiếng kêu giòn giã, và hơi lạnh của băng giá tạt vào mặt ông đến choáng ngợp. Lớp cát màu đo đỏ được rải lên lớp băng che phủ những bậc thềm của hiên trước (chống trơn trợt) trông giống như bột quế, và các thỏi băng nhũ thật dày có màu xanh lơ pha màu lục treo lủng lẳng trên mái nhà. Lớp tuyết dày len lỏi vào tận trong mấy cái cửa sổ của phần nhà nối dài, xiết chặt dãy hành lang hẹp bằng gỗ gọn gàng này bằng cái gọng kềm lạnh. Cái khối màu trắng ngà, trước là nơi trồng hoa vào mùa hè, đã phồng to lên, hơi cao hơn mực tuyết của hàng hiên trước, và xa xa là ánh sáng lộng lẫy của rừng, nơi ấy tất cả các cành cây màu đen đều được viền ánh bạc, và những ngọn thông xanh dường như co rúm những cái vấu màu xanh lục bên dưới sức nặng đẫy đà sáng rực của chúng.

Mang đôi ủng nỉ và cái áo khoác ngắn bên trong lót bằng lông thú có cổ áo bằng lông cừu, Sleptsov bước chầm chậm dọc theo con đường nhỏ rất thẳng, con đường độc nhất đã được dọn sạch tuyết dẫn vào cánh đồng tuyết sáng đến lóa mắt phía xa xa. Ông ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống, vẫn còn có thể nhận thấy cái sáng rực rỡ của tuyết, và cảm thấy mấy cái răng cửa đau buốt vì không khí lạnh. Ông cũng chú ý đến cái bụi cây bị tuyết phủ trông giống như một cái nguồn nước phun, và con chó đã để lại trên bờ tuyết một chuỗi dấu chân màu vàng nghệ hằn sâu vào rìa của bờ tuyết. Xa hơn một chút nữa, bộ phận chống đỡ cái cầu dành cho khách bộ hành ló ra khỏi tuyết, và Sleptsov dừng lại ở nơi ấy. Cáu kỉnh, giận dữ, ông xô mạnh lớp tuyết dày và xốp phủ đầy lan can cầu. Ông nhớ lại hình ảnh thật sống động, dáng dấp của cây cầu vào mùa hè. Cậu bé, con của ông, đi dọc theo mấy thanh gỗ của cây cầu trơn trợt, lấm tấm điểm hoa dại, khéo léo dùng vợt bắt con bướm đang đậu trên thành cầu. Thế rồi cậu bé chợt nhìn thấy ông bố. Mãi mãi mất rồi tiếng cười đùa trên mặt cậu bé, bên dưới cái vành nón rơm bẻ cụp xuống, bị nắng rám đen; mấy món đồ chơi cầm tay và dây xích của cái ví da cột vào dây thắt lưng, đôi chân đáng yêu của cậu bé, rám nắng nhẵn nhụi trong cái quần “sọt” vải và đôi săng-đan ướt nhem, thường đứng dạng chân rất vui vẻ. Chỉ mới đây thôi, ở Petersburg, sau khi say sưa ba hoa về chuyện ở trường, chuyện cái xe đạp, về mấy con bướm Á châu rất đẹp, cậu bé bỗng qua đời, và hôm qua Sleptsov đã mang cỗ quan tài – rất nặng nề, dường như nó chứa sức nặng của cả cuộc đời – về làng, vào nhà mồ riêng của gia đình ở gần nhà thờ trong làng.

Không gian yên vắng như chỉ có thể yên vắng đến thế này trong một ngày sáng sủa và lạnh giá. Sleptsov nhấc chân lên, bước ra khỏi lối đi, để lại những vết lõm sâu màu xanh lơ trong tuyết, tạo lối đi giữa những thân cây trắng lạ lùng đến nơi cánh rừng bắt đầu rẽ xuống hướng bờ sông. Phía dưới thật xa, những khối băng tỏa ánh sáng lấp lánh gần một cái lỗ bị cắt thủng trong một màu trắng mịn bao la, và, ở bờ bên kia mấy cột khói màu hồng đứng thẳng bên trên mái nhà phủ đầy tuyết của những căn nhà được xây cất bằng các thân gỗ tròn. Sleptsov cởi cái mũ lông cừu đứng tựa lưng vào thân cây. Ở phía xa thật xa, nông dân đang bổ củi – âm thanh của mỗi nhát búa vang vọng lên không trung – và ở bên ngoài làn sương mỏng màu bạc bao phủ rặng cây, bên trên những túp lều gỗ đang ngồi xổm, ánh mặt trời chiếu sáng vẻ thư thái của cây thánh giá trên nóc nhà thờ.

Sau bữa ăn trưa ông sẽ đến nơi ấy bằng cỗ xe trượt tuyết cũ kỹ có chỗ dựa lưng rất thẳng. Tiếng vó câu của con ngựa đen nện mạnh mẽ trong không gian lạnh băng, các chòm lông trắng của những cành cây thấp là đà trượt phía trên đầu, và dấu bánh xe ở phía trước lấp loáng màu xanh lơ có ánh bạc. Khi ông đến nơi, ông ngồi độ một giờ đồng hồ bên cạnh mộ, đặt đôi bàn tay đeo găng bằng len dầy nặng lên trên những thành cầu bằng sắt, hơi lạnh xuyên qua lớp len làm bỏng rát bàn tay ông. Ông về nhà với một nỗi thất vọng nhẹ nhàng, như thể để con trong nhà mồ càng làm xa cách với ông hơn là chỗ này, nơi để lại vô số dấu chân thoăn thoắt của cậu bé đã được bảo toàn bằng lớp tuyết bao phủ.

Chiều tối, bất chợt bị nỗi buồn mãnh liệt tràn ngập, ông bảo người nhà mở cửa của gian nhà chính. Khi cánh cửa mở toang với tiếng kêu buồn phiền như tiếng khóc, thoang thoảng có một mùi đặc biệt, tươi mát chứ không mốc meo như mùi của mùa đông, thổi từ tiền sảnh có chấn song sắt, Sleptsov lấy ngọn đèn với tấm phản chiếu bằng thiếc từ tay người gác cửa rồi vào nhà một mình. Nền nhà bằng gỗ kêu răng rắc đầy vẻ rùng rợn dưới bước chân của ông. Từ phòng này sang phòng khác trong ánh sáng vàng vọt, và những vật dụng trong nhà được che phủ bằng những tấm vải trông rất xa lạ; thay vì tiếng rung lanh canh của cái đèn trần là một cái bao im lìm treo trên trần nhà, và cái bóng khổng lồ của Sleptsov, chậm chạp duỗi cánh tay, bồng bềnh trôi trên tường và bên trên những cái hình vuông xám của những bức tranh đã được phủ che.

Ông vào phòng của cậu con trai đã dùng làm phòng học lúc mùa hè, để ngọn đèn lên bệ cửa sổ, rồi làm gãy móng tay khi ông cố mở cửa sổ, mặc dù ngoài kia chỉ toàn là bóng đêm. Trên tấm kính màu xanh, ngọn lửa vàng của cái đèn hơi bị khói ám hiện ra, và bộ mặt to lớn, râu ria của ông xuất hiện trong chốc lát.

Ông ngồi xuống ở cái bàn trống trải và nghiêm nghị, chau mày khám xét giấy dán tường màu nhạt viền quanh là những dây chuỗi hoa hồng xanh; một cái tủ hẹp thường được dùng ở các văn phòng với những ngăn kéo từ trên xuống dưới; một cái ghế nệm dài và mấy cái ghế bành được che trùm lại; rồi bất thần, gục đầu lên trên bàn, ông bắt đầu lắc mạnh, mê mải, mãnh liệt, ồn ào, áp đôi môi và sau đó đến gò má đẫm ướt vào cái mặt gỗ lạnh lẽo đóng đầy bụi và nắm chặt mấy góc bàn.

Trong ngăn bàn ông tìm thấy quyển vở, cái bảng, mấy cái kim găm màu đen, và một hộp bánh bích-qui bằng thiếc trong đó có chứa một cái kén rất lạ mắt trị giá ba rubles. Sờ vào, nó mỏng manh như giấy và dường như nó được làm bằng một chiếc lá màu nâu cuộn tròn. Cậu con của ông đã nhớ đến nó lúc cậu bé đang nằm bệnh, hối tiếc là mình đã bỏ nó lại ở nhà nhưng tự an ủi với ý nghĩ là con nhộng bên trong có lẽ đã chết rồi. Sleptsov cũng tìm thấy một cái vợt lưới đã mòn: một cái túi bằng vải mỏng như mút-xơ-lin đặt lên trên một cái vòng có thể xếp lại (và lớp vải này vẫn còn mùi của mùa hạ với mùi cỏ nóng vì ánh mặt trời).

Cúi gập người xuống thấp hơn, rồi thấp hơn nữa, ông khóc nức nở rung chuyển cả thân hình, rồi ông bắt đầu kéo ra từng chiếc ngăn có nắp đậy bằng kính trong cái tủ đứng. Trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn, những vật làm mẫu được sắp xếp ngay ngắn, chiếu sáng như lụa bên dưới lớp kính. Ở đây, trong phòng này, trên bàn ấy, con ông đã dang đôi cánh những động vật cậu bắt được. Trước tiên cậu dùng kim găm cắm con côn trùng đã được cẩn thận giết chết lên cái khe rãnh có đáy bằng gỗ xốp của cái bảng trưng bày, ở giữa những lát gỗ mỏng có thể điều chỉnh được và ép nó xuống cho thật phẳng bằng kim ghim trên những mảnh giấy lên đôi cánh vẫn còn tươi và mềm mại. Bây giờ thì chúng đã rất khô và đã được chuyển vào trong cái tủ đứng này – loài bướm Đuôi Én tuyệt mỹ, loại bướm hiếm màu Đồng và màu Xanh, và các loại bướm quí khác, một vài con bướm được gắn lên bảng ở vị thế nằm ngửa để trưng bày trứng bướm. Con ông từng đọc tên Latin của những loại côn trùng này với giọng than thở một cách đắc thắng hay rẻ rúng. Và lũ bướm, lũ bướm Diều Hâu Aspen đầu tiên xuất hiện hồi mùa hạ của năm năm trước.

Đêm có màu xanh của khói và trăng rất sáng; mây mỏng lác đác trên trời nhưng không vệt mây nào chạm đến mặt trăng kiêu sa và mỏng manh. Rừng cây, những mảng dày băng giá màu xám, rải bóng đen trên tuyết, lấp lánh chỗ này nơi kia một thứ ánh sáng của kim loại. Trong cái ghế bọc nhung, gian phòng sưởi ấm áp của đoạn nối hai dãy nhà, Ivan đã đặt một cây thông cao chừng sáu hay bảy tấc trong một cái chậu đất sét nung lên bàn, và chỉ cắm một ngọn nến lên chân nến hình thánh giá khi Sleptsov từ gian nhà chính quay về, lạnh lẽo, mắt đỏ hoe, bụi xám còn dính đầy trên má, dưới nách cặp theo cái hộp gỗ. Nhìn thấy cây Giáng Sinh trên bàn, ông hỏi lơ đễnh, “Cái gì đây?”

Đỡ cái hộp gỗ trên tay ông, Ivan trả lời bằng giọng rất nhỏ nhẹ, dịu dàng, “Ngày mai là ngày lễ.”

“Không, mang nó đi chỗ khác,” Sleptsov nói với vẻ cau có, trong đầu thì suy nghĩ, “Có thể nào là đêm Giáng Sinh? Tại sao ta có thể quên chứ?”

Ivan dịu dàng giữ ý kiến, “Nó đẹp và xanh mướt. Hãy để cho nó được đứng ở đây một ít lâu.”

“Làm ơn mang nó đi chỗ khác đi,” Sleptsov lặp lại, cúi người trên cái hộp gỗ ông mang về. Trong đó ông đã mang hết đồ dùng của con trai – cái vợt bắt bướm có thể gấp lại được, hộp bánh bích-qui bằng thiếc với cái kén hình quả lê, cái bảng để giăng cánh bướm, những cây kim găm trong cái hộp sơn mài, cuốn vở màu xanh. Phân nửa trang đầu tiên đã bị xé đi, và phần còn lại chứa một phần bài chính tả tiếng Pháp. Sau đó có những bài nhật ký, tên của những con bướm bắt được, và những hàng ghi chú khác:

Đi ngang một vùng đầm lầy xa mãi tận Borovichi . . .

Hôm nay mưa. Đánh cờ với bố, sau đó đọc Frigate của Goncharov, cuốn sách chán kinh khủng.

Một ngày nóng tuyệt vời. Chạy xe đạp buổi chiều tối. Một con bọ bé xíu rơi vào mắt tôi. Cố ý đạp xe ngang ngôi nhà nghỉ hè của cô bé ấy hai lần, nhưng không gặp cô bé . . .

Sleptsov ngẩng đầu lên, nuốt cái gì đó rất nóng và to lớn. Con ông viết về ai thế?

Chạy xe đạp như thường lệ. Chúng tôi nhìn nhau. Cục cưng của tôi, người yêu ơi …

“Chuyện này không thể tưởng tượng được,” Sleptsov thì thầm. “Tôi không bao giờ biết. . .”

Ông lại cúi người xuống, tập trung cố giải mã nét chữ trẻ con hết nghiêng người đứng lên lại cúi gập xuống lề quyển vở.

Nhìn thấy một loại bướm mới của giống Mỹ Nữ Camberwell hôm nay. Điều đó có nghĩa là mùa thu đã đến. Mưa lúc chiều tối. Cô bé có lẽ đã về thành phố rồi, chúng tôi chưa có dịp làm quen với nhau. Giã biệt, người yêu dấu. Tôi cảm thấy rất buồn. . . .

“Nó chưa bao giờ kể tôi nghe những chuyện như thế này . . .” Sleptsov cố nhớ lại, xoa trán bằng lòng bàn tay.

Trên trang giấy cuối cùng có một bức họa vẽ bằng mực: cái nhìn từ phía sau của con voi – hai cái cột to xù, góc cạnh của hai lỗ tai, và cái đuôi bé xíu.

Sleptsov đứng lên. Ông lắc đầu, cố gắng tự kềm chế những tiếng nức nở khủng khiếp cứ chực trào ra.

“Tôi–không-thể-chịu-đựng-được-nữa,” ông lè nhè giữa những tiếng rên, lặp lại càng chậm hơn, “Tôi–không-thể-chịu-đựng-được-nữa . . .”

Ngày mai là ngày Giáng sinh, điều nhắc nhở đến bất chợt, và tôi sẽ chết. Dĩ nhiên. Đơn giản thế thôi. Chính đêm nay . . .

Ông rút cái khăn tay ra và lau khô đôi mắt, gò má. Những vết đen dính lại trên khăn tay.

“. . . cái chết,” Sleptsov nói nhỏ nhẹ như thể kết luận một câu dài.

Tiếng đồng hồ gõ nhịp. Những mô hình sương giá trùng lặp lên nhau trên tấm kính xanh của cửa sổ. Quyển vở mở được chiếu sáng rực trên bàn, bên cạnh nó ánh sáng xuyên qua lớp vải mút-xơ-lin của cái vợt bắt bướm, sáng lóng lánh ở một góc của cái hộp thiếc mở nắp. Sleptsov nhắm chặt mắt, mơ hồ cảm thấy sự sống của trần thế trước mặt ông, hoàn toàn trơ trụi đơn giản và buồn thảm khủng khiếp, vô lý vô dụng đến nhục nhã, tuyệt tự, thiếu vắng phép nhiệm mầu.

Ngay lúc ấy bỗng có tiếng rạn nứt – âm thanh mỏng manh như tiếng sợi dây cao su bị căng thẳng rồi bị đứt. Sleptsov mở mắt. Cái kén trong hộp bánh bích-qui bằng thiếc đã vỡ ra ở phía trên đầu, và một con vật nhăn nheo màu đen to cỡ một con chuột sơ sinh đang bò lên trên tường phía trên bàn. Nó dừng lại, cố bám vào mặt tường bằng sáu cái chân cuống quít và bắt đầu phập phồng một cách lạ thường. Nó xuất hiện từ cái kén bởi vì người đàn ông vật vã trong nỗi đau khổ đã mang cái hộp thiếc vào căn phòng ấm áp của ông, và hơi ấm đã thấm vào cái vỏ kén bằng lá và lớp tơ dày chắc của nó; nó chờ đợi giây phút này từ lâu, gom góp tất cả sức lực, và giờ đây, đã nở, thoát ra, nó từ từ và đầy nhiệm mầu nở to lên. Dần dần những mảnh vỏ nhăn nheo, những đường viền nhung nở ra; những sợi gân hình quạt xếp trở nên cứng cáp hơn khi nó chứa đầy không khí. Nó trở nên loài vật có cánh, không thể nào tưởng tượng nổi, có khuôn mặt trưởng thành và trở nên rất xinh đẹp. Và đôi cánh – vẫn còn yếu ớt, và ướt át – tiếp tục lớn lên và mở ra, và bây giờ chúng phát triển đến mức toàn vẹn nhất mà Tạo Hóa đã xếp đặt, và nơi đó, trên vách tường, thay vì là một cái khối nhỏ của cuộc đời, thay vì là con chuột đen, là một con bướm Attacus như những loài có thể bay như chim, vòng quanh ngọn đèn trong những buổi hoàng hôn bên Ấn Độ.

Và rồi đôi cánh dày và đen ấy, với các đốm sáng ngời như đôi mắt trên ấy với một đóa hoa màu tím, nó xoa những cái chân trước vào nhau như phủi bụi, hít một hơi đầy bên dưới sự thôi thúc rất dịu dàng, khao khát, rất giống với hạnh phúc của loài người.

Dmitri Nabokov dịch từ bản tiếng Nga với sự góp ý của tác giả (dịch giả là con của tác giả).

___

Vladimir Nabokov (1899 – 1977) nhà văn Nga biết rất nhiều thứ tiếng. Ông viết chín tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Nga rồi nổi tiếng trên toàn thế giới là nhà văn lớn chuyên viết tiếng Anh với văn phong tuyệt vời. Tác phẩm Lolita của ông ra đời năm 1955 là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông. Lolita, Pale Fire, và Speak, Memory là những tác phẩm nằm trong danh sách Modern Library 100 Best Novels và Nonfiction (100 quyển tiểu thuyết và các thể loại khác như ký, phê bình, tiểu luận hay nhất của Thư Viện Hiện Đại).

Leave a comment