Mùa Giáng sinh trong ký ức

Nguyên tác A Christmas Memory của Truman Capote.

Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà

Bài này đã đăng ở Văn Chương Mới (newvietart.com) năm 2009.

TRUMAN CAPOTE  (1924 – 1984 )

Sơ lược về tác giả: Truman Capote sinh ra tại New Orleans, Louisiana ngày 30 tháng Chín năm 1924 và mất ngày 25 tháng Tám năm 1984. Có khoảng 20 tác phẩm của Truman Capote đã được chuyển thành phim và kịch bản. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất là Breakfast at Tiffany, và Cold Blood. Ông là bạn thân của Harper Lee, tác giả quyển How to Kill a Mockingbird và bà đã dùng ông làm người mẫu cho nhân vật Dill trong tác phẩm của bà. Ông bắt đầu viết rất sớm. Vào năm mười một tuổi ông đã chuyên chú viết ba giờ đồng hồ một ngày. Khi ông được bốn tuổi, bố mẹ ông ly dị và mẹ ông gửi ông về Monroeville, Alabama với một người trong họ, bà u già Rumbley Faulk, Truman thường gọi bà là Sook. Ngày 25 tháng Tám, trước khi chết, những lời cuối cùng của ông là “Em đây mà, em là Buddy,” và “Em lạnh quá.” Buddy là tên của bà u già đặt cho Truman. Continue reading Mùa Giáng sinh trong ký ức

Món Quà Vô Giá

Tác giả: Stephanie Ray Brown

Người dịch Nguyễn thị Hải Hà

Bài này đăng ở Văn Chương Việt năm 2011

Những ai thích ca hát luôn luôn tìm thấy bài hát. Tục ngữ.

Sau khi các em học trò lớp hai của tôi chào cờ xong, các em ngồi xuống ghế. Nhưng Duane vẫn đứng. Duane là cậu học trò rất thông minh và tính tình rất dễ thương, nhưng hoàn cảnh gia đình của em không mấy tốt đẹp.

Mẹ của em không chồng một mình nuôi con và gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn phức tạp trong cuộc sống. Duane và ba đứa em gái thường được Ban Xã hội mang đi gửi chỗ khác mỗi khi mẹ em không thể đương đầu với cuộc sống. Cho là đêm qua lại có chuyện không hay xảy đến với em, tôi đến gần em để hỏi xem có việc gì. Lúc ấy em ngước lên nhìn tôi với đôi mắt đen láy, tôi có thể nhìn thấy trong đôi mắt đầy nỗi buồn và thất vọng. Continue reading Món Quà Vô Giá

Hai Người Chưa Gặp Mặt

Tác giả: John McNulty

Người dịch: Nguyễn Thị Hải Hà dịch

Bài đăng ở Văn Chương Việt năm 2011.

Eddie Casavan và Harry Marnix đang đi trên Đại lộ thứ Năm, đoạn đường cắt ngang đường thứ Năm Mươi, bất chợt nhận ra bầu không khí Giáng sinh đang bao trùm lấy họ. Có vẻ như tinh thần Giáng sinh kẹp ông Casavan chặt chẽ hơn là với người kia, nhưng cả hai người đều cảm nhận được lễ Giáng sinh đang bấu lấy họ. Cửa sổ các cửa tiệm, không khí lạnh giá, đèn được thắp sáng lên từ lúc xế chiều, và có lẽ, vài ly rượu mạnh họ uống khi đi dạo đã tạo nên cảm giác này.

Họ rẽ qua một con đường khác qua khỏi Đại lộ thứ Năm thì Eddie nói, “Dường như tôi không còn muốn có quà Giáng sinh nữa.” Continue reading Hai Người Chưa Gặp Mặt

Giáng Sinh ở Tokio

Giáng Sinh ở Tokio

Tác giả: Max Hill 

Nguyễn Thị Hải Hà dịch

Truyện đã đăng ở Văn Chương Việt năm 2011

Thời Trân Châu Cảng, tôi được phát cho một con số, số 867, rồi bị nhốt vào căn phòng giam có diện tích một mét rưỡi nhân ba mét ở nhà tù Sugamo, người Nhật chỉ nhạt nhẽo gọi nó là Tokio Kochisho, hay Nhà Giam Tokio. Tháng 5, khi ấy tôi vẫn còn ở Sugamo, tôi bị xử và bị buộc tội đã gửi cho báo Associated Press, ở chức vụ phóng viên, những câu truyện mà theo sự phóng đại của ông thẩm phán, đã “làm tổn hại chính sách ngoại giao của Nhật Bản.” Tôi bị án tù mười tám tháng, nhưng án tù này tạm ngưng khi chính quyền Hoa Kỳ cương quyết đòi phải bao gồm tất cả phóng viên trong đợt trao đổi đầu tiên giữa các quốc gia, và tôi thật sự rời khỏi Sugamo vào tháng 6 khi tôi được đưa ra trại tập trung nơi tương đối tự do hơn,  sau đó được tàu Gripsholm đưa về New York, vì thế toàn bộ thời gian bị ở tù của tôi là sáu tháng. Sáu tháng ở trong nhà giam Tokio rất là tẻ nhạt. Continue reading Giáng Sinh ở Tokio

Giáng Sinh

Giáng Sinh

Tác giả: Vladimir Nabokov

Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà.

Truyện Giáng Sinh đăng ở Văn Chương Việt năm 2011.

Sau khi đi bộ từ trong làng trở về trang viện băng ngang cánh đồng tuyết sáng lờ mờ, Sleptsov ngồi vào trong góc nhà, trên cái ghế bọc nhung ông không nhớ đã bao giờ dùng đến nó. Cũng giống như những chuyện chúng ta thường thấy sau một cơn đại họa. Không phải anh em mà lại là một người quen sơ, ông láng giềng ở nông thôn bạn chẳng mấy khi để ý đến lúc bình thường bạn chẳng buồn trò chuyện đến, lại chính là người an ủi bạn, rất khéo léo và hoàn toàn dịu dàng, nhặt hộ bạn cái mũ bạn đánh rơi sau khi tang lễ chấm dứt lúc bạn đang bị choáng váng trong nỗi đau khổ, răng bạn đang run lập cập, và mắt bạn đang mờ vì nước mắt. Người ta cũng có thể nói như thế về đồ vật. Bất cứ căn phòng nào, ngay cả những căn phòng ấm áp thân mật nhất và nhỏ đến không thể nào nhỏ hơn, hay trong cái chái nhà ít khi được sử dụng của một trang viện đồ sộ ở nông thôn, cũng có một góc không hề có người lui tới. Và đó là cái góc nhà Sleptsov đang ngồi. Continue reading Giáng Sinh

Ba truyện Giáng sinh hay

Giới thiệu ba truyện ngắn rất hay về Giáng sinh. Nguyễn thị Hải Hà dịch và giới thiệu. Phần giới thiệu này đã đăng trên Văn Chương Việt năm 2011.

Cả ba truyện ngắn, Giáng Sinh của Vladimir Nabokov, Hai Người Chưa Gặp của John McNulty, và Giáng Sinh ở Tokio đều được trích từ “Christmas at The New Yorker: stories, poems, humor, and art” xuất bản năm 2003. Nhiều truyện trong quyển này rất hay và của nhiều tác giả rất nổi tiếng như John Cheever, John Updike, Alice Munro, … . Continue reading Ba truyện Giáng sinh hay

Âm Thanh Và Tinh Thần Giáng Sinh

Nguyên tựa đề của bài là Âm Thanh Và Tinh Thần Giáng Sinh qua đôi tai người phụ nữ khiếm thính.

Tác giả: John E. Schlimm II 

Nguyễn thị Hải Hà dịch

Bài này đã đăng ở Văn Chương Việt năm 2011. Âm thanh và tinh thần Giáng sinh

Âm Thanh và Tinh Thần Giáng Sinh của John E. Schlimm II được trích từ A Chicken Soup for the Soul – Christmas (Cháo Gà[1] Bồi Dưỡng Tâm Hồn trong mùa Giáng Sinh). Tôi có sửa chữa nên có một vài chữ khác với bản đã đăng trên Văn Chương Việt.

Giáng sinh không chỉ xảy ra trong một ngày, một
buổi lễ để chúng ta chào đón rồi nhanh chóng lãng quên.
Giáng sinh là một tinh thần nên được thấm sâu
vào mọi mặt trong cuộc đời của chúng ta. Continue reading Âm Thanh Và Tinh Thần Giáng Sinh

Chúng ta nói gì khi nói chuyện tình yêu, p. 3

“Em vẫn thấy tội nghiệp cho anh ấy,” Terri nói.

“Nghe như là ác mộng vậy,” Laura nói. “Nhưng chính xác chuyện xảy ra như thế nào vào lúc hắn tự sát?”

Laura làm thư ký chuyên ngành luật. Chúng tôi gặp nhau trong môi trường làm việc, chẳng mấy lâu chúng tôi yêu nhau. Nàng ba mươi lăm, trẻ hơn tôi ba tuổi. Chẳng những chỉ yêu nhau, chúng tôi hợp tính nhau và thích ở bên cạnh nhau. Nàng rất dễ hòa hợp với mọi người.

 

 

“Chuyện xảy ra như thế nào?” Laura hỏi.

Mel nói, “Hắn tự bắn vào mồm, trong phòng của hắn. Có người nghe tiếng súng báo cho người quản lý biết. Người ta dùng chìa khóa phụ mở cửa phòng, nhìn thấy chuyện đã xảy ra, và gọi xe cứu thương. Tình cờ tôi đang có mặt trong bệnh viện khi người ta mang hắn vào, hắn còn sống nhưng không còn nhớ gì cả. Hắn sống lây lất ba ngày, đầu hắn sưng to gấp hai lần cái đầu bình thường. Tôi chưa bao giờ gặp cảnh tượng như thế này, và hy vọng sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Terri muốn vào bệnh viện ngồi cạnh hắn khi nàng biết tin. Chúng tôi cãi nhau vì chuyện này. Tôi nghĩ là nàng không nên nhìn thấy hắn trong tình trạng như thế. Lúc đó tôi nghĩ như thế và bây giờ cũng vậy.”

“Thế rồi ai thắng?” Laura nói.

“Tôi ở trong phòng bệnh với anh ấy khi anh ấy qua đời,” Terri nói. “Anh ấy chẳng hề tỉnh lại chút nào. Nhưng tôi vẫn ngồi cạnh anh ấy. Anh ấy chẳng có ai là người thân.”

“Hắn là một người nguy hiểm,” Mel nói. “Nếu em gọi đó là tình yêu thì em cứ việc yêu hắn.”

“Đó là tình yêu,” Terri nói. “Chắc chắn là như vậy, nó có vẻ bất bình thường trong mắt mọi người. Nhưng anh ấy sẵn sàng chết vì tình yêu. Và anh ấy đã chết vì tình yêu.”

“Tôi đoan chắc như đinh đóng cột, đó không phải là tình yêu,” Mel nói. “Chẳng ai biết chắc vì sao hắn tự tử. Tôi đã gặp nhiều trường hợp tự tử, và tôi không thể xác định được họ tự tử vì cái gì.”

Mel chắp hai tay đằng sau gáy và hơi ngả người ra phía sau làm cái ghế nghiêng theo. “Tôi chẳng quan tâm đến cái thứ tình yêu như thế,” anh nói. “Nếu đó là tình yêu thì em cứ yêu.”

Terri nói, “Chúng tôi sợ hãi lắm. Mel còn làm cả di chúc và viết thư cho người anh của anh ấy ở California. Anh này trước kia phục vụ trong Lực Lượng Đặc Biệt. Mel bảo anh ấy biết kẻ nào có thể là thủ phạm nếu có chuyện bất trắc xảy ra cho Mel.”

Terri uống rượu trong ly của nàng. Nàng nói. “Mel nói đúng đấy – chúng tôi sống như hai tội phạm. Chúng tôi luôn sợ hãi. Mel rất sợ, đúng không anh? Tôi còn gọi cả cảnh sát nữa đấy, nhưng họ chẳng giúp gì cả. Họ bảo họ chẳng làm gì được cho đến khi Ed thật sự phạm lỗi. Nghe có buồn cười không?” Terri nói.

Nàng rót nốt chỗ rượu trong chai rượu gin vào ly của nàng và lúc lắc cái chai không. Mel đứng lên rời bàn vào tủ lấy thêm chai rượu nữa.

Chơi với lửa

Playing with Fire Tess Gerritsen

Hôm thứ Tư tuần trước (trước thứ Tư vừa qua) tôi đi trả sách, bà quản thủ thư viện bảo tôi, “bà nên đọc quyển này, nhưng bà phải chờ sau khi tôi đọc xong.”
“Vâng, nhưng tôi có thể đặt nó trước (put on hold) và chờ bà đọc xong.”
“Quyển này nói về Holocaust, và âm nhạc. Bà đọc rồi sẽ thấy, hay lắm.”

Bà quản thủ thư viện này thích loại sách của tôi thường hay đọc, dường như chúng tôi có cùng cái taste về văn học. Thỉnh thoảng bà giới thiệu với chồng bà một trong những quyển non-fiction bà thấy tôi đọc. Bà cũng giới thiệu với tôi những quyển sách bà thấy hay. Và thứ Tư vừa qua tôi được cho mượn quyển sách này. Cùng lúc tôi mượn được nhiều phim ảnh, sách về thần thoại huyền thoại mà tôi đang tò mò tìm hiểu. Sợ phụ lòng bà quản thủ thư viện, và cũng sợ khi bà hỏi dăm ba câu (small talk) trong lúc tôi trả sách về quyển sách bà giới thiệu mà mình không biết đường trả lời, tôi đọc quyển sách ngay lập tức.

Sách hay, dễ đọc, rất hấp dẫn. Khó dịch. Tôi không có đủ từ để dịch về âm nhạc và khi đọc tôi cũng không hiểu hết. Tôi không mường tượng được tiếng nhạc bổng hay trầm, khi tác giả nói đến những cung nhạc. Nói A thì tôi không chắc nó là Đô hay Sol, nói về nhịp điệu adagio tôi không biết nó nhanh đến cỡ nào hay chậm đến cỡ nào. Có lẽ cần phải nghe và học thêm âm nhạc cổ điển của Tây phương để có thể cảm thụ văn học nhiều hơn. Còn Holocaust thì mãi đến bây giờ người ta vẫn còn khai thác nỗi đau lớn này trong văn học. Người đọc vẫn thấy cứa vào lòng những đau đớn của phận người nhỏ nhoi trước sự độc ác của những người có quyền lực.

Tôi đọc liên tục vào những lúc có thể đọc từ thứ Tư đến Thứ Sáu thì xong. Truyện nói về mối tình của hai nhạc sĩ trẻ, lồng vào bản nhạc viết cho violin và cello. Bài ca dành cho người đang hấp hối, đang đau đớn. Một người cùng với gia đình bị bắt đưa vào trại tập trung. Một người ở lại cố chờ nhưng … . Một người nhạc sĩ vĩ cầm tìm được bản nhạc xưa khi đang du lịch bên Ý và từ đó đảo lộn cuộc sống của nàng. Câu chuyện được thắt mở theo lối viết truyện trinh thám, vì đây cũng là một câu chuyện trinh thám, cộng thêm mạch truyện của liên hệ mẹ con, vợ chồng, tình gia đình, tình yêu, v.v… .

Nếu độc giả có chừng hai ngày không có gì trói buộc gấp gáp, đọc quyển này cũng rất thú vị.

Chúng ta nói gì khi nói chuyện tình yêu, p. 2

“Hỏi tôi câu đó là hỏi không đúng người rồi,” Tôi nói. “Tôi không quen biết gì với anh ta. Tôi chỉ nghe người khác nhắc đến tên của anh ta. Tôi không biết. Anh phải biết rõ một số chi tiết đặc biệt để có ý kiến. Nhưng tôi nghĩ rằng theo anh, tình yêu là một sự tuyệt đối.”

Mel nói, “Cái loại tình yêu mà tôi đang nói đến là tình yêu tuyệt đối. Trong thứ tình yêu này, người ta không tìm cách giết người.”

Laura nói, “Tôi không biết gì về Ed, cũng không biết chuyện gì đã xảy ra trong hoàn cảnh như thế nào. Nhưng ai là người có quyền phán đoán về tình cảnh của người khác chứ?”

Tôi vuốt lưng bàn tay của Laura. Nàng mỉm cười với tôi, nụ cười thoáng qua thật nhanh. Tôi cầm lấy bàn tay nàng. Tay nàng ấm áp, móng tay sơn màu, cắt giũa cẩn thận. Ngón tay tôi ôm tròn cườm tay nàng, rồi tôi giữ tay nàng trong tay tôi.

“Khi tôi bỏ đi, anh ấy uống thuốc chuột,” Terri nói. Nàng khoanh tay lại, bàn tay này đặt lên cánh tay kia. “Người ta chở anh ấy vào bệnh viện Santa Fe. Gần chỗ ở của anh ta, lúc ấy, chỉ cách khoảng mười dặm. Anh được cứu sống. Nhưng cả hai cái lợi (nướu răng) trở nên phát cuồng, dường như chúng cố chạy trốn hai hàm răng. Sau lần tự tử này, răng của anh ấy chìa ra ngoài giống như mấy cái nanh. Ôi Trời,” Terri nói. Nàng nhẩn nha một phút, xong buông tay ra và vói cầm cái ly của nàng.

“Thật là chẳng có cái gì mà loài người không dám làm!” Laura nói.

“Hắn ta chẳng còn có thể làm cái gì được nữa,” Mel nói. “Hắn ta đã chết.”

Mel đưa cho tôi đĩa nhỏ đựng chanh. Tôi lấy một miếng chanh nhỏ, vắt vào ly, và dùng ngón tay khuấy nhẹ mấy viên nước đá.

“Chuyện trở nên thê thảm hơn,” Terri nói. “Anh ấy tự bắn vào mồm. Nhưng anh ấy lại chẳng thành công. Tội nghiệp cho Ed,” nàng nói. Terri lắc đầu.

“Ed chẳng có gì đáng để tội nghiệp cả,” Mel nói. “Hắn là một người nguy hiểm.”

Mel bốn mươi lăm tuổi. Anh cao ráo, dong dỏng, và có mái tóc xoăn mềm. Da mặt và cánh tay anh màu nâu vì anh chơi tennis. Khi anh không say xỉn, cử chỉ và thái độ của anh rất chính xác, đầy thận trọng.

“Anh ấy thật tình yêu em, Mel. Cho phép em tin như thế,” Terri nói. “Em chỉ xin anh bấy nhiêu thôi. Anh ấy không yêu em giống như cái cách anh yêu em. Em không nói thế. Nhưng anh ấy yêu em. Anh có thể tin lời em chứ?”

“Chị bảo rằng anh ấy không thành công, tại sao?” Tôi hỏi.

Laura cầm ly rượu hơi nghiêng người về phía trước. Nàng đặt khuỷu tay lên bàn, ấp ly rượu bằng hai bàn tay. Nàng liếc nhanh từ Mel sang Teri và chờ câu trả lời vẻ mặt đầy thắc mắc, dường như nàng kinh ngạc khi những chuyện như thế lại có thể xảy ra cho bạn của nàng.

“Tại sao anh ta không thành công khi tự sát?” Tôi hỏi.

“Để tôi kể bạn nghe,” Mel nói. “Hắn ta lấy khẩu .22 hắn mua để đe dọa Terri và tôi. Ồ, tôi nói thật đấy, hắn luôn luôn đe dọa mọi người. Ước gì anh có thể nhìn thấy chúng tôi vào lúc ấy, chúng tôi luôn sống trong tình trạng lẩn trốn như hai kẻ phạm tội. Tôi còn mua cả súng để phòng thân nữa chứ. Anh có thể ngờ không? Một người như tôi đây? Vậy mà tôi đã làm như thế đấy. Tôi mua một khẩu súng để tự vệ và cất nó trong ngăn chứa găng tay trong xe. Đôi khi tôi phải rời căn hộ lúc nửa đêm. Để đi đến bệnh viện, anh biết mà? Terri và tôi lúc ấy chưa chính thức cưới nhau, và bà vợ trước của tôi đã lấy căn nhà, bắt mấy đứa con, con chó, tất cả mọi thứ. Tôi và Terri sống trong căn hộ này. Đôi khi điện thoại gọi lúc nửa đêm và tôi phải vào bệnh viện lúc hai hay ba giờ sáng. Ngoài bãi đậu xe trời tối đen, và tôi đã rịn mồ hôi trước khi tôi vào trong xe. Tôi sợ một lúc nào đó hắn sẽ chui ra từ bụi rậm, hay phía đằng sau xe rồi bắt đầu bắn vung vít lên. Tôi đã nói hắn ta là một thằng điên mà. Hắn còn biết quấn bom nữa đấy. Hắn gọi cơ quan nhận điện thoại và tin nhắn cho tôi bất kể đêm ngày; nói rằng hắn ta có chuyện cần thảo luận với bác sĩ, và khi tôi gọi điện thoại cho hắn, thì hắn nói. ‘Thằng chó đẻ kia, mạng của mày đếm từng ngày con ơi.’ Những chuyện vặt vãnh như thế. Cũng đáng sợ lắm. Nói cho bạn nghe.”

Chúng ta nói gì khi nói chuyện tình yêu, p. 1

Chúng ta nói gì khi nói chuyện tình yêu

Tác giả: Raymond Carver

Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà

 

Bạn tôi, Mel McGinnis đang nói chuyện. Mel McGinnis là bác sĩ giải phẫu tim, đôi khi, nghề bác sĩ tim cho anh cái quyền phát biểu ý kiến.

Chúng tôi bốn người đang ngồi vòng quanh bàn ăn trong nhà bếp của anh, nhấm nháp rượu gin. Nắng tràn vào nhà bếp từ cái cửa sổ to bên cạnh chậu rửa bát. Chúng tôi gồm có Mel, tôi, Teresa – hay Terri, tên chúng tôi thường gọi, và Laura, vợ tôi. Lúc ấy chúng tôi đang ở Albuquerque. Nhưng cả bốn người chúng tôi đều từ nơi khác đến.

Cái sô nhỏ chứa nước đá để trên bàn. Chai gin và chai tonic được chuyền tay vòng quanh bàn, rồi chẳng hiểu tại sao chúng tôi lại bàn đến chủ đề tình yêu. Mel quan niệm rằng tình yêu đúng nghĩa là tình yêu trong tâm hồn, có phần nghiêng về tôn giáo. Anh kể là anh đã từng sống trong chủng viện 5 năm trước khi từ bỏ đạo để theo học Y khoa. Anh nói hồi tưởng lại, những năm sống trong chủng viện là những năm quan trọng nhất trong đời anh.

Terri kể, gã đàn ông sống chung với nàng trước khi nàng đến với Mel đã yêu nàng rất nhiều, nhiều đến độ hắn muốn giết nàng. “Có một đêm hắn đánh đập tôi. Hắn nắm cổ chân tôi, lôi tôi vòng quanh phòng khách. Đầu tôi va vào hết cái này đến cái kia.” Terri nhìn chung quanh bàn. “Bạn làm gì với cái tình yêu như thế chứ?”

Nàng thuộc loại phụ nữ gầy tự nhiên, mắt đen, tóc nâu dài thả phủ lưng. Nàng thích đeo chuỗi đá màu xanh turquois, và thích đeo hoa tai dài lủng lẳng.

“Trời ơi, đừng có khùng quá. Đó không phải là tình yêu, em biết dư rồi mà,” Mel nói. “Anh không biết cái đó gọi là gì, nhưng anh chắc chắn em không thể gọi đó là tình yêu.”

“Anh muốn nói gì thì nói, nhưng em biết nó là tình yêu,” Terri nói. “Với anh, điều này nghe có vẻ điên, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Mỗi người mỗi khác mà, Mel. Đúng là đôi khi anh ấy làm nhiều chuyện điên rồ. Vâng. Nhưng anh ấy yêu em. Chắc là chỉ có anh ấy mới yêu cái kiểu như thế, nhưng anh ấy yêu em. Có bóng dáng tình yêu trong những hành vi điên rồ, Mel. Đừng có nói trong hành động điên rồ không có tình yêu.”

Mel thở ra. Anh nâng ly rượu và quay về hướng Laura và tôi. “Hắn đe dọa sẽ giết tôi,” Mel nói. Anh nốc nốt chỗ rượu và với lấy chai gin. “Terri là người lãng mạn. Terri thuộc nhóm người đá-em-đi-để-em-thấy-mình-được-thương-yêu. Terri, cục cưng ơi, đừng có biến sắc mặt như vậy.” Mel vói tay qua bên kia bàn vuốt má Terri. Anh nhoẻn miệng cười với nàng.

“Bây giờ anh ấy lại muốn làm lành.” Terri nói.

“Làm lành chuyện gì?” Mel nói. “Có gì đâu mà phải làm lành? Anh biết chuyện anh biết. Có thế thôi.”

“Tại sao chúng ta lại bắt đầu về chủ đề này?” Terri nói. Nàng nâng ly uống cạn chỗ rượu. “Mel lúc nào cũng nghĩ đến tình yêu,” nàng nói. “Đúng không anh, anh yêu?” Nàng mỉm cười, và tôi nghĩ chuyện sẽ chấm dứt ở đây.

“Anh chỉ không thể gọi hành động của Ed là tình yêu. Thế thôi, cưng ạ,” Mel nói. “Thế còn các bạn thì sao?” Mel nói với Laura và tôi. “Nghe nó có vẻ gì là tình yêu không?”

Vĩnh Long và Hà Nội trong hồi tưởng của Marguerite Duras

Vĩnh Long 
Người dịch: Bà Tám
Trích từ tác phẩm Practicalities của Marguerite Duras

Có Vĩnh Long, và còn có Hà Nội. Tôi đã nói về Vĩnh Long, nhưng chưa hề nói đến Hà Nội. Như tôi đã nói trước đây, Vĩnh Long là một vùng biên giới hẻo lánh của vùng Đông Nam Á. Bạn đã ở ngay trên Tràm Chim, một cánh đồng có nhiều sông ngòi dẫn nước lớn nhất thế giới, theo ý tôi. Continue reading Vĩnh Long và Hà Nội trong hồi tưởng của Marguerite Duras

trích đoạn trong quyển Practicalities

The Black Block

When you’re writing, a kind of instinct comes into play. What you’re going to write is already there in the darkness. It’s as if writing were something outside you, in a tangle of tenses: between writing and having written, having written and having to go on writing; between knowing and not knowing what it’s all about; starting from complete meaning, being submerged by it, and ending up in meaningless. The image of a black block in the middle of the world isn’t far out. Continue reading trích đoạn trong quyển Practicalities

Đọc Trang Sách và Những Giấc Mơ Bay II của Nguyễn Lệ Uyên

This slideshow requires JavaScript.

Nguyễn Lệ Uyên – Trang Sách và Những Giấc Mơ Bay Tập II

Đây là lần thứ nhì tôi giới thiệu sách phê bình văn học của nhà văn Nguyễn Lệ Uyên. Trước đây tôi đã viết một bài ngắn về quyển Trang Sách và Những Giấc Mơ Bay 1 và Nguyễn Lệ Uyên Chân Dung Tự Vẽ. Lần này tôi sẽ giới thiệu quyển Trang Sách và Những Giấc Mơ Bay II.

Trước nhất, tôi rất thích cái tựa sách, rất thơ. Nguyễn Lệ Uyên mang thơ vào những bài phê bình văn học. Đọc Nguyễn Lệ Uyên sẽ thấy phê bình văn học không khô khan.Có hai nhà phê bình tôi rất thích đọc vì những bài phê bình về thơ của các ông rất nên thơ đó là Teju Cole và Robert Bly.

Không nặng về lý thuyết, Nguyễn Lệ Uyên viết phê bình văn học theo phương pháp reader-response criticism. Ông là nhà văn theo khuynh hướng lãng mạn và hiện thực nên cách ông phê bình dựa vào khuynh hướng này. Văn của Nguyễn Lệ Uyên óng ả, trau chuốt, giàu hình ảnh và màu sắc.

Trong Trang Sách và Những Giấc Mơ Bay II, Nguyễn Lệ Uyên nhận định về tác phẩm của mười ba tác giả. Những tác giả tôi chưa đọc tác phẩm gồm có: Thảo Trường, Đỗ Hồng Ngọc, Lâm Hảo Dũng, Hạc Thành Hoa, và Phạm Chu Sa. Một vài tác phẩm của những tác giả tôi có dịp đọc qua là: Chinh Ba, Trần Hoài Thư, Khuất Đẩu, Bùi Đăng, Phạm Văn Nhàn, Âu thị Phục An, và Đặng Kim Côn.

Nói cho khiêm tốn, tôi là một người tập viết phê bình văn học nhận xét về những bài phê bình văn học. Đây là cơ hội tôi có thể so sánh luận điểm của nhà văn Nguyễn Lệ Uyên với nhận định của tôi, nhất là về những tác phẩm mà cả tôi và ông cùng đọc.

Nhờ có kinh nghiệm về chiến tranh, Nguyễn Lệ Uyên nhìn thấy những chi tiết sống động trong truyện của Thảo Trường như hố bom biến thành hồ cá, chỗ chết trở nên nguồn sống của dân làng, chị Tư là biểu tượng của dân tộc Việt bị kềm kẹp giữa hai dòng chính trị. Nguyễn Lệ Uyên kết luận, Thảo Trường “chịu tù đày 17 năm dài từ Nam ra Bắc. Bởi vì ông, Thảo Trường là một nhà văn trung thực.”

Ôi! Tội nghiệp nhà văn Thảo Trường. Viết văn làm chi cho khổ.

Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên rất hào phóng với lời khen. Trong 13 tác giả, và thêm phần phụ lục nói về nhà văn kiêm dịch giả Trần Phong Giao, tôi thấy toàn là những lời khen, thật đậm đà. Điều này rất hợp ý của tôi. Cái hay của Nguyễn Lệ Uyên là ông khen rất văn chương.

Hồi mới lớn tôi có đọc một quyển sách nói về tuổi mới lớn của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Gần đây tôi có đọc vài bài blog của ông. Thú thật, những bài về Thiền và Phật Giáo của ông “già” quá đối với tôi. Tôi còn bon chen tranh giành với cuộc sống nên đọc văn ông tôi thấy như nước đổ lên cái đầu vịt (của tôi). Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên phân tích những bài thơ của nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc và cuối cùng kết luận: “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời.” Tôi muốn trêu nhà văn Nguyễn Lệ Uyên một chút. Nhà văn Thảo Trường viết văn chẳng cứu được đời mà còn lụy đến thân. Và cũng vì câu kết luận này mà tôi càng sợ bị gọi là nhà văn hơn. Tôi không muốn bị gán cho cái sứ mạng cứu đời.

Khi Nguyễn Lệ Uyên nhận định về một tác phẩm văn học, bạn sẽ muốn tìm đọc quyển ấy ngay lập tức. Tôi có đọc thơ của Hạc Thành Hoa nhiều nơi trên mạng nhưng không dám bàn về thơ. Tôi thích đọc thơ của ông và đầu tiên tôi đã chú ý đến cái bút hiệu rất đẹp. Nhận định của Nguyễn Lệ Uyên về tác giả này làm tôi càng muốn tìm đọc thêm thơ ông. Tôi xin trích một đoạn phê bình đẹp như thơ để độc giả thưởng thức.

“Căn phòng nhỏ nhìn ra con rạch êm đềm, đầy bóng râm mát, đầy tiếng ve trên những tàn cây cổ thụ và tiếng đàn và thơ. Thơ như khí trời bám khắp bốn bức vách loang lổ, đổ xuống nền gạch tàu, treo lủng lẳng trên xà ngang, ám vào mái ngói âm dương rêu phong. Thơ quấn quít bên kệ sách, ngập ngừng chao lượn trên sàn gạch màu lá bàng bay lơ lửng trong không. Tiếng mái chèo quẫy nhẹ như chiếc vây bơi con cá chẽm bên dưới dòng Cái Sơn. Xa hơn chút, tiếng máy đuôi tôm khua động mặt sóng sông Tiền. Và nữa, tiếng đạn pháo ngoài lung xa, vũng sáng nhơm nhớp hỏa châu che khuất ánh trăng. . . đã đẩy ông vào góc tường tróc lở từng mảng vôi. Ông rưng rưng sợi dây đàn căng. Ông ngậm ngùi lưng tròng nhìn qua dòng sông đang cới tay níu choàng con rạch nhỏ đặc sệt một dòng trăng vàng thấu đáy (nhưng cái đám bằng hữu “nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà” kẻ trước người sau, lần lượt quay về xó cũ bỏ ông lại một mình với cảnh “Gã giang hồ vẫn gác trọ cô đơn. . . Thăm ta đôi lúc cơn gió lạnh/Thổi tạt mùa đông xuống đáy mồ!”) Khoảng thời gian ấy, không bao giờ những vò rượu Lai Vung, Lấp Vò nhấn lút được những câu thơ từ chốn sâu thẳm tâm hồn ông tha thướt bước ra như một thiếu nữ khuê các. Nàng đẹp đến não nùng. Nàng Lục Bát của ông khoác áo màu hoàng yến tắm trăng. Mảnh xiêm y rơi nhẹ. Trăng ướt đẫm nàng, ve vuốt nàng rồi trần truồng phơi ra những thiên hà ngập ngừng bên cạnh con nước sông Tiền lên xuống.” trang 150 – 151.

Tôi rất đồng tình với nhà văn Nguyễn Lệ Uyên về truyện ngắn Bài Thơ Trên Xương Cụt của Chinh Ba. Nguyễn Lệ Uyên viết: “Ông vẽ lên những mảnh đời có thật, đâu đó quanh ta; về thân phận con người trong bối cảnh xã hội bị hất tung lên, mọi giá trị đạo đức văn hóa bị bổ nhào cùng những hệ lụy của chiến tranh tàn khốc, để cuối cùng kết lại là nỗi khát khao được làm người theo đúng nghĩa con người.” Trang 45. Và: “Cuộc chiến giữa nàng Út Lệ và Ba Lò Heo là cuộc đấu tranh không cân sức, giữa một bên là người nghệ sĩ và bên kia là tên đồ tể; giữa nghệ thuật và dao phay; giữa kềm tỏa, trói buộc và Tự Do! Hắn ta đã chen chân vào đời sống tinh thần của vợ. Hắn uốn nắn niềm đam mê của nàng bằng những “tiếng dao cheng chẻng chém xuống thanh giường” bằng cả những tiếng la hét, hằn học. Nói khác, ẩn ngữ “ghen bóng ghen gió” của Chinh Ba có thể hiểu đồng thời là sự áp đặt có hệ thống, có mưu đồ tính toán hẳn hòi, mà mục đích cuối cùng là nhằm triệt tiêu Tự Do và niềm đam mê cháy bỏng của người nghệ sĩ.” Trang 53.

Truyện Bài Thơ Trên Xương Cụt đăng vào tháng 10 năm 1965, có lẽ để phê bình chế độ kiểm duyệt của cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm. Lúc bấy giờ ông Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ nhưng một tác phẩm thường thì được ấp ủ hình thành rất lâu trước khi ra mắt độc giả. Một tác phẩm hay sẽ tồn tại qua nhiều thời đại. Vào một thời đại khác truyện ngắn này vẫn là biểu tượng của sự phản kháng tầng lớp lãnh đạo độc tài. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, điều quan trọng là nội dung của hình xâm và chữ xâm chứ không phải là chỗ xâm. Người ta có thể xâm tên người mình yêu ở những chỗ kín đáo. Và nếu nội dung của hình xâm hay chữ xâm thô tục thì chính người mang vết xâm phải chịu nhục, tại sao người đọc vết xâm thấy mình bị làm nhục?

Trong số mười ba (nói cho đúng, mười bốn) tác giả nhà văn Nguyễn Lệ Uyên nhận định tác phẩm chỉ có một nhà văn nữ. Nếu ông là nhà văn Hoa Kỳ có lẽ người ta đã kêu ca ầm ĩ là ông kỳ thị nhà văn nữ. Nhận xét về Âu thị Phục An, Nguyễn Lệ Uyên viết: “Văn chị cứ ‘tỉnh queo’ đến lạnh lùng trong những tình huống mà lẽ ra là đón đợi những vồn vập, rực cháy, những háo hức nồng nàn… Đọc những truyện ngắn của chị, nhiều khi tôi nghĩ, chị như một kẻ lữ hành trên con đường vắng, không có người đồng hành để trò chuyện, đành phải dồn nén lại. Sự dồn nén đó cứ lướt thướt trôi theo dòng suy nghĩ chảy xọc vào ngòi bút, giống như một thỏi băng tan chảy.” Ông cũng nhận xét nhân vật của chị Phục An có sự suy nghĩ của những người già trước tuổi. Điểm này tôi đồng tình với ông Nguyễn Lệ Uyên. Tôi phục chị Phục An lắm. Khi chị nổi tiếng với Thăm Viếng thì tôi đang mày mò tập viết văn, ngóng cổ chờ bài đăng đến thất vọng. Thật thú vị là khi chị mới hơn hai mươi nhân vật của chị suy nghĩ về tình yêu và hôn nhân như một người gấp đôi tuổi của chị nhưng bây giờ hình ảnh trong thơ của chị đầy sinh lực của tuổi hai mươi. Tôi tự hỏi khi chị viết truyện ngắn Thăm Viếng thì phong trào nữ quyền đã thấm nhập vào Việt Nam chưa. Ở Thăm Viếng tôi nhìn thấy một thái độ phản kháng ngầm. Đó là cái thái độ của một người biết mình sắp bị mất tự do. Hay đó là thái độ của một người phụ nữ chống lại trật tự định kiến của xã hội như đến tuổi thì phải lấy chồng, vị hôn phu sắp ra trận thì phải cưới gấp trước khi anh ta chết trận, phải đi thăm vị hôn phu ở quân trường, phải chìu chuộng những khao khát của người tình. Người phụ nữ phản kháng việc mình phải dàn xếp cuộc đời của mình chung quanh một người đàn ông. Nàng muốn sống cách khác, đi hướng khác. Cái hay của truyện này, theo tôi, là cái chị không nói thẳng ra, nó tạo thành sự căng thẳng kéo dài suốt truyện. Đó có phải là một quan điểm nữ quyền của tác giả không? Tôi e là tôi có cái nhìn méo mó vì tôi bị ảnh hưởng bởi quan điểm nữ quyền. Có phải đọc sách cũng giống như soi gương? Tôi đọc tư tưởng của người nhưng nhìn thấy tư tưởng của mình? Liệu người đọc có thể sai lầm khi nhìn thấy những quan điểm mà người viết không cố ý?

Những bài phê bình văn học của nhà văn Nguyễn Lệ Uyên rất hấp dẫn. Ông có những nhận xét tinh tế của một người đọc nhiều và hiểu biết nhiều về tác giả vì ông có giao thiệp tiếp xúc với những nhà văn này. Đọc những bài phê bình văn học này với tôi là cơ hội vừa hiểu biết vừa thưởng thức.

Trích dẫn Trang Sách và Những Giấc Mơ Bay II

Phần phụ. Trích dẫn để độc giả thưởng thức.

Nhận xét về Cánh Đồng Đã Mất của Thảo Trường, Nguyễn Lệ Uyên viết: “Tất cả như đã biến mất khỏi cuộc đời, y như cánh đồng trước kia mênh mông màu xanh cỏ phủ tràn cùng những bông hoa dại rung rinh trước những cơn gió phất qua, nay đã biến mất. Mùi thơm của hoa cỏ đất trời đã biến dạng. Cánh đồng của sự bình yên đã méo mó, của hoa thơm cỏ mượt xanh đã chìm lấp bên dưới những giao thông hào, vòng rào kẽm gai, như ông sĩ quan già đã bị lấy mất tuổi thanh xuân của chính mình, như tuổi trẻ của Hoán bất chợt đổi thay về số phận và khung cảnh.” Trang 13

Nhận xét về các bài La Ngà 1 đến 5 của Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Lệ Uyên viết: “Ông nhìn nhận cảnh quan theo vẻ đẹp mẫn tuệ nơi ông đã đành, nhưng đến những cảnh huống mà nhiều người nhìn thấy là xấu, khi lọc qua tâm hồn ông bỗng sáng rực như ánh sáng ban mai; ngôn ngữ diễn đạt cứ như những hạt sương long lanh trên cành lá biếc xanh.” Trang 39.

Nhận xét về thơ của Lâm Hảo Dũng, Nguyễn Lệ Uyên viết: Sống chết hay cái vui, với ông đều là may rủi: May còn emmay còn cái vui như một tiếng kêu não nuột bật ra từ tâm thức ngủ yên. Đó chỉ là niềm hạnh phúc mong manh không ở ngay bên cạnh và đâu đó như một vệt khói hư không.

Nguyễn Lệ Uyên nhận xét về Trần Hoài Thư rằng ông Trần Hoài Thư viết nhiều, viết dễ dàng, ở đâu cũng viết được: “Ông viết dễ dàng còn hơn đưa ly rượu lên miệng: Viết dưới hầm; trùm poncho dưới giao thông hào, bật đèn pin để viết; viết trong lúc dừng quân, trong quán cà phê; viết khi chân, ngực băng kín trong quân y viện. . . nghĩa là ông có thể viết trong bất kỳ tư thế, không gian và thời gian nào ông cảm thấy mạch văn như đang có dấu hiệu chảy trào ra khỏi con người ông, trườn qua cây bút và mảnh giấy tựa như con suối nghiêng dòng nước trong xanh chảy ca hát cùng mùa xuân.

Nhận xét về Ngày Đầu Ở Xứ Người, văn phong của Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên nói: “Bức tranh toàn cảnh này, ông vẽ ra với một giọng văn thổn thức, hoài nhớ đến nao lòng. Và hình như đây chính là phong cách của ông, văn phong của chính riêng ông.” P. 94

“Đoạn kết của thế hệ này sẽ vẫn phải còn thở hồng hộc như trâu cày đồng, thở bằng mũi, miệng, tai; thở bằng mông đít và các đầu ngón tay chân, trên từng sợi tóc mặn đắng mồ hôi của tủi nhục, không phân biệt đó là những kẻ đang ngụ tạm quê người, hay còn ở quê nhà thở khói chiều vi vu bên anh Cuội dưới gốc đa, ru ta những mộng mị hoang tưởng trên đời, rung bã, mệt mỏi, ê chề.” trang 95.

Nhận xét về Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Lệ Uyên viết: “Hầu hết những truyện ông viết đều mang nỗi hoài nhớ, pha lẫn chút “ngậm ngùi” như trong truyện ông đặt ở trên. Các nhân vật đang vật lộn với đời sống khó khăn hôm nay nhưng trong tận cùng đáy sâu tiềm thức của họ là những lớp sáng tôi của quá khứ. Cái quá khứ ấy không hẳn là trọn vẹn, la hạnh phúc; nhưng trải qua những ngày từ thơ ấu cho tới lúc trưởng thành, bước chân vào đời, luôn là những bài thơ đẹp lộng lẫy như khói trời; bởi nó thấm đẫm tình người.” trang 131.

Nhận xét về thơ Phạm Chu Sa, Nguyễn Lệ Uyên viết; “Trong buổi nhiễu nhương, tâm cảm nơi ông chừng như là những mộng mị trôi nổi có không từ ‘thời gian vọng’ đến ‘thời gian xuôi’ như cách gắn liền quá khứ xa tới hiện tại gần, là nỗi cô đơn của kẻ lưu đày trên chính ngay mảnh đất ông đang bước tới, gắn chặt, thở khói trời u uẩn. Ông chìm khuất và mất tăm giữa cái ồn ào trống rỗng, là tiếng kêu bi thiết của con chim gục ngã trên tổ rơm thông thống lỗ méo nụ hoang hoác.” Trang 162.

Tả hình dáng nhà thơ Phạm Chu Sa: “nhìn bờm tóc ông nhuốm ráng chiều màu nắng quái ngoài hành lang, nhìn cái dáng xiêu xiêu thẫn thờ dưới cột đèn ngã chúi về đêm trong con hẻm nhỏ và hai tay trong túi quần và ánh mắt như màu tối đậm trên vờ tường thấp loang lổ, tôi đã tự hỏi: ông tự tìm kiếm chính mình trong nỗi cô đơn hay hoài nhớ đâu đó, là những hình bóng nhập nhòa, hiển hiện trên bờ tường đá ong, những mất mát luôn vây bủa, bi lụy không ít đến cuộc đời ông?”

Nguyễn Xuân Thiệp – Tản Mạn Bên Tách Cà Phê

This slideshow requires JavaScript.

Tôi được tặng ba quyển Tôi Cùng Gió Mùa, Thơ, Tản Mạn Bên Tách Cà Phê của nhà văn Nguyễn Xuân Thiệp.  Mấy hôm nay tôi nhẩn nha thưởng thức Tản Mạn Bên Tách Cà Phê.

Những bài tản mạn này thú vị ở chỗ tác giả kết hợp chuyện quá khứ ở Việt Nam với chuyện hiện thời ở hải ngoại, chuyện Á đông và chuyện Tây phương, chuyện người già và người trẻ. Trong một bài ông viết về thành phố New Orleans với những cây cầu dài gần 40 km, có quán cà phê gợi nhớ những hoàng hôn tím, và người Việt trân mình chịu cơn bão Katrina. Một bài khác ông viết về bài Chiêu Hồn Ca của Nguyễn Du cùng với cái không khí trại tù ở Thành Đá Xanh, Thanh Chương Nghệ Tĩnh. Ông kể chuyện loài én thiên di hằng năm trở về San Juan Capistrano rất thơ mộng nhưng rồi bỗng dưng chúng bặt tăm không quay trở lại nữa. Những buổi hội hè liên hoan bỗng trở nên tẻ nhạt vì chim đi biền biệt. Văn của ông cũng giống như thơ, đầy nét lãng mạn với bướm và hoa, loài chim cardinal màu đỏ, dế và ve sầu, quá khứ của ông có tiếng gà trưa và những con tàu chạy ngang qua nhà ga nhỏ bé. Ông cũng viết về chiến tranh với những ưu uất nhưng không có chút nào oán hận. Đây là một quyển tập hợp các bài văn ngắn, thông minh, đáng yêu và cũng là một chuỗi kỷ niệm của nhà văn với bạn bè gắn bó với thời cuộc từ Việt Nam đến hải ngoại. Tác giả là nhà thơ có cái nhìn của họa sĩ. Những bài tạp ghi này là những bức tranh lồng vào rất nhiều bài hát và văn hóa Tây phương.

Tác giả Nguyễn Xuân Thiệp có nhiều bài thơ rất hay. Tôi rất thích bài Thảo Nguyên và bài Đốt Lửa Nghe Sư Đàn. Hai bài thơ này ông sáng tác lúc đang bị ở tù cải tạo thế mà giọng thơ rất hiền hòa thanh tịnh. Ông thường không viết hoa ở những chỗ đầu câu làm tôi liên tưởng đến cách viết của e. e. cummings nhưng chỉ liên tưởng thế thôi chứ tôi không tìm ra được nhiều điểm để chứng minh sự tương đồng giữa hai nhà thơ. Chỉ có một nét chung là cả hai người đều thích viết về thiên nhiên. Cả ba quyển thơ và văn của tác giả Nguyễn Xuân Thiệp rất thông minh, rất thơ, và rất lãng mạn. Tôi đọc xong thấy tiếc giá mà mình đọc chậm lại chút nữa, như nhâm nhi ly cà phê vào một buổi sáng đẹp trời.

Độc giả có thể tìm đọc tác phẩm của ông trên trang mạng Gió O. Nguyễn Xuân Thiệp. Hay có thể đọc ở trang mạng Phố Văn. Link ở đây.

Người trong ngăn cách – phần cuối cùng

David Royle
Hôtel Le Pïgeonnier
Aix-en-Provence

Ngày 7 tháng 11, 1998

Hôm nay là ngày giỗ của ba tôi.
Hôm nay tôi mới hiểu là tôi không thể gặp lại em nữa.
Và tôi để tang cha, tang cho em và cho cả ba chúng ta.
Tôi sẽ đi Mỹ lại.
Kay, cái đẹp của tôi, cái ung độc của tôi, cái trắng trinh của tôi, con nhện của tôi.
Kay, tôi yêu em điên cuồng.
Kay, em nhìn quá cao nên tôi đâm chóng mặt, và muốn tự một mình đo tầm sức với đời, đối mặt với biển cả, với Holywood, với cạm bẫy, với những thần tượng giả.
Tình yêu đã trở nên quá đầy…
Nên tôi đã thả lại em trên bến
Cái hèn hạ to nhất của tôi. Continue reading Người trong ngăn cách – phần cuối cùng